Nara 奈良 | |
---|---|
— Thành phố trung tâm — | |
奈良市 · Thành phố Nara | |
From top left: Wakakusayama Mountain Burning, Great Buddha of Todaiji, Yakushi-ji, Todai-ji, Kasuga Shrine and a deer in Nara Park | |
Hiệu kỳ Biểu tượng | |
Vị trí của Nara ở Nara | |
Nara | |
Tọa độ: | |
Quốc gia | Nhật Bản |
Vùng | Kinki |
Tỉnh | Nara |
Đặt tên theo | Nara |
Chính quyền | |
• Thị trưởng | Nakagawa Motonobu (Nakagawa Gen) |
Diện tích | |
• Tổng cộng | 276,84 km (10,689 mi) |
Dân số (ngày 1 tháng 1 năm 2010) | |
• Tổng cộng | 368,636 |
• Mật độ | 1.331,58/km (344,880/mi) |
Múi giờ | JST (UTC+9) |
630-8580 | |
Mã điện thoại | 742 |
Thành phố kết nghĩa | Versailles, Canberra, Gyeongju, Toledo, Tây Ban Nha, Tây An, Dương Châu, Tagajō, Kōriyama |
- Cây | Quercus gilva |
- Hoa | Nara yaezakura |
- Chim | Japanese Bush Warbler |
Điện thoại | 0742-34-1111 |
Địa chỉ tòa thị chính | 1-1-1 Nijō-ōji, Nara-shi, Nara-ken 630-8580 |
Trang web | City of Nara |
Thành phố Nara (奈良市, Nại Lương thị) thuộc tỉnh Nara (奈良県) nằm ở khu vực Kinki của Nhật Bản.
Ngược dòng thời gian
Nara từng là thủ đô của Nhật Bản, được gọi là Heijo-kyo, vào năm 710. Trong thời kỳ trước năm 784, khi thủ đô chuyển đến nơi khác, thành phố này được coi là nổi tiếng và đẹp nhất Nhật Bản. Thời kỳ này được gọi là thời kỳ Nara trong lịch sử Nhật Bản. Thủ đô lúc bấy giờ có tên chính thức là Heijō Kyō, được thiết kế dựa trên mô hình Trường An của triều Đường, Trung Quốc, hiện nay là Tây An. Theo sách cổ Nihon Shoki, tên gọi 'Nara' xuất phát từ từ narashita, có nghĩa là 'làm phẳng'.
Bức tường bao quanh thành phố dài khoảng 4,3 km theo hướng Đông-Tây và 4,8 km theo hướng Bắc-Nam. Một con đường rộng 80 m, thiết kế theo phong cách Trung Hoa, chạy từ Bắc đến Nam, cắt ngang qua khu vực trung tâm. Con đường này nối liền với cung điện Heijo, nơi đặt các cơ quan trung ương và hoàng cung.
Trong thời kỳ Nara, chính quyền đã mạnh mẽ ủng hộ đạo Phật, dẫn đến việc xây dựng nhiều ngôi chùa lớn, nhiều trong số đó vẫn còn tồn tại đến ngày nay. Việc xây dựng những ngôi chùa lớn để thờ Phật được xem như một cách bảo vệ vua và đất nước Nhật Bản. Thời kỳ này, Nhật Bản có mối quan hệ thân thiết với Trung Quốc dưới triều Đường, và Nara trở thành nơi tiếp nhận nhiều sản phẩm văn hóa và nghệ thuật từ Trung Quốc. Các công trình xây dựng, nghệ thuật và điêu khắc từ thời kỳ này vẫn được bảo tồn và là di sản quốc gia của Nhật Bản.
Vào năm 2010, thành phố Nara đã tổ chức lễ kỷ niệm 1300 năm thành lập thủ đô cổ của Nhật Bản.
Di sản thế giới
Nara | |||
"Nara" in kanji | |||
Tên tiếng Nhật | |||
---|---|---|---|
Kanji | 奈良 | ||
Hiragana | なら | ||
|
Vào tháng 12 năm 1998, Ủy ban Di sản thế giới đã công nhận một số khu vực và các công trình lịch sử của Nara, bao gồm di tích các cung điện, rừng cây và chùa chiền được xây dựng cách đây khoảng 1300 năm, khi Nara còn là thủ đô của Nhật Bản, là di sản văn hóa thế giới. Các phần của di sản văn hóa cố đô Nara bao gồm:
- Chùa Todai
- Bảo tàng Hoàng gia Shoso
- Chùa Kofuku
- Đền Kasuga
- Chùa Gango
- Chùa Yakushi
- Chùa Toshodai
- Di tích Cung điện Heijo
- Rừng nguyên sinh Kasugayama
Trước đó, vào năm 1993, khu quần thể kiến trúc Phật giáo tại chùa Horyuji ở Nara đã được UNESCO công nhận là di sản thế giới.
Thành phố kết nghĩa
- Canberra, Úc
- Gyeongju, Hàn Quốc
- São Paulo, Brazil
- Toledo, Castile-La Mancha, Tây Ban Nha
- Versailles, Pháp
- Tây An, Trung Quốc
Hình ảnh minh họa
Liên kết bên ngoài
- Trang web chính thức của thành phố Nara Lưu trữ ngày 2007-02-25 tại Wayback Machine
- Trang web của UNESCO về Di sản văn hóa cổ đô Nara
- Dữ liệu địa lý liên quan đến Nara (thành phố) trên OpenStreetMap
Tỉnh Nara |
---|
Các thành phố lớn của Nhật Bản |
---|
Di sản thế giới tại Nhật Bản |
---|
Tiêu đề chuẩn |
|
---|