Thành cổ Nghệ An, còn được biết đến là Thành cổ Vinh, là một di tích lịch sử của một tòa thành cổ được xây dựng vào thời Nguyễn tại Việt Nam, nằm tại thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An ngày nay. Hiện nay, di tích của thành cổ này bao gồm 3 cổng thành là Tiền môn (ở phường Cửa Nam), Tả môn (ở phường Quang Trung), Hữu môn (ở phường Quang Trung) và một số đoạn hào thành. Di tích thành cổ Nghệ An đã được nhà nước Việt Nam công nhận là Di tích lịch sử Quốc gia từ năm 1998.
Các ghi chép trong lịch sử
Vùng đất Nghệ An từ xa xưa đã là một trọng trấn quan trọng của lãnh thổ Việt Nam. Từ thời Bắc thuộc, nhà Đường đã cho xây dựng phủ thành Hoan châu để kiểm soát phương Nam. Theo các nhà nghiên cứu hiện đại, vào năm 713, Mai Thúc Loan đã khởi nghĩa, chiếm phủ thành Hoan châu và sau đó tiến hành đánh Tống Bình, giải phóng người Việt khỏi sự áp bức của nhà Đường trong 10 năm.
Thời kỳ độc lập, sách Đại Việt Sử ký toàn thư ghi lại sự kiện năm 1382, quân Chiêm Thành xâm lấn Đại Việt và bị quân nhà Trần đuổi đánh đến thành Nghệ An. Sử liệu không cho biết vị trí cụ thể của ngôi thành này, có thể là thành Rùm hay Lam thành (ở xã Hưng Thành, huyện Hưng Nguyên ngày nay), do Hồ Quý Ly xây dựng để bảo vệ phía Nam.
Lam thành được xây trên núi Thành, vòng thành chạy từ sườn núi phía Đông Bắc xuống phía Nam rồi quay lên phía Tây. Thành có hình thang, được xây dựng từ đá núi, vôi và mật. Trên thành có nhiều đoạn cao với vọng gác, ụ súng... Ngày nay, công trình chỉ còn lại một vài dấu vết, bị tàn phá bởi thời gian và xâm nhập từ các hoạt động đào bới và khai thác quặng kéo dài.
Khi quân Minh chiếm Đại Việt, Nghệ An trở thành phủ và Lam thành là trụ sở của phủ Nghệ An.
Lam thành thường là điểm đầu tiên của nhà Hậu Trần để thiết lập căn cứ chống lại quân Minh. Ngay cả khi nhà Hậu Trần bị diệt, các lực lượng kháng Minh của người Việt vẫn liên tục nổi dậy. Vào tháng 7 năm 1419, Phan Liêu, một quan Việt bị nhà Minh bắt làm Tri phủ Nghệ An, đã nổi dậy sau khi bị bức ép thu thuế vàng bạc, đánh giết các quan nhà Minh gửi đến và vây thành Nghệ An. Khi sắp chiếm được thành, Phan Liêu bị Lý Bân đem quân tiếp việc truy bắt, nhưng anh đã kịp thời trốn sang Ai Lao. Lý Bân không kịp truy bắt, quay lại Nghệ An để sửa chữa và bảo vệ Lam thành.
Năm 1424, theo kế của Nguyễn Chích, Lê Lợi đã quyết định dẫn quân vào Nghệ An để xây dựng căn cứ chiến lược chống lại quân Minh. Quân Lam Sơn đã tiêu diệt từng lần các đồn điền trên lãnh thổ Nghệ An, buộc quân Minh phải thu hẹp vào thành Nghệ An để tự bảo vệ. Các tướng lĩnh của quân Minh như Trần Trí, Lý An, Phương Chính đều từng phải lòng vòng trong thành này trước sức ép của quân Lam Sơn. Thành Nghệ An cuối cùng bị quân Lam Sơn bao vây cho đến tháng 2 năm 1427, khi tướng quân là Thái Phúc, theo lời khuyên của Nguyễn Trãi, quyết định đầu hàng.
Trong thời Lê, trụ sở hành chính Nghệ An đã từng dời từ Lam thành đến làng Dinh Cầu (nay là xã Kỳ Châu, huyện Kỳ Anh, Hà Tĩnh), sau đó dời về Dũng Quyết (nay là phường Trung Đô, thành phố Vinh, Nghệ An). Lam thành chỉ còn là nơi đặt lỵ của Thừa ty và Hiến ty của trấn Nghệ An.
Sau khi lên ngôi, vua Quang Trung có ý định di dời kinh đô từ Phú Xuân đến Nghệ An. Ông đã cho thực hiện khảo sát để xây dựng một kinh thành mới và đặt tên là Phượng Hoàng trung đô. Kinh thành mới được xây dựng nằm gần chân núi Quyết (gọi là Phượng Hoàng), kéo dài đến Rú Mèo. Kinh thành này được bao quanh bởi hai vòng thành được gọi là thành Nội và thành Ngoại. Thành Ngoại có hình thang, chu vi 2.820 m, diện tích khoảng 22 ha, được xây bằng đất. Bên ngoài thành có hào rộng 3 m, sâu 3 m, mặt thành cao 3-4 m. Thành Nội được xây dựng bằng gạch và đá ong, chu vi gần 1.680 m, cao 2 m, có cửa lớn mở ra hai phía tây và đông. Bên trong thành Nội có toà lầu rộng, cao 3 tầng, có bậc thềm tam cấp bằng đá ong, phía sau là hai dãy hành lang nối với điện Thái Hòa dành cho việc hoàng triều. Nhìn từ trên cao, thành Nội có hình tam giác gần như hoàn toàn: mặt hành phía Đông Bắc chạy sát theo chân núi Quyết (Phượng Hoàng), phía Nam cắt ngang qua núi Mèo (Kỳ Lân), phía Tây kéo dài qua cánh đồng theo một đường thẳng lên gần Mũi Rồng (một nhánh của núi Dũng Quyết).
Sách La Sơn phu tử cho biết thêm chi tiết:
“ | Núi Mèo (tức Kỳ Lân) làm nền cho đồn gác, thành phía Nam chấp vào núi ấy. Mặt đông bắc lấy núi Quyết (Phượng Hoàng) làm thành. | ” |
Theo sách La Sơn phu tử, kích thước của thành Ngoại bao gồm các bức tường núi tự nhiên, cũng như các đoạn đắp thành phía nam dài 300 m và phía tây dài 450 m. Các đoạn thành đắp lên cao để phù hợp với tình hình địa hình núi.
Tuy nhiên, việc xây dựng thành Phượng Hoàng gặp phải sự phản đối gay gắt của nhân dân do chính sách nghiêm khắc của nhà Tây Sơn. Ngoài ra, vua Quang Trung cũng qua đời trước khi kịp thực hiện việc dời đô. Thành Phượng Hoàng hoàn toàn bị bỏ hoang.
Thành Nghệ An trong thời kỳ Nguyễn
Sau khi lên ngôi vào năm 1803, vua Gia Long đã chọn làng Vĩnh Yên ở phía Tây Bắc của Dũng Quyết (tức là thành Nghệ An cổ) để xây dựng trụ sở quản lý Nghệ An. Thành Phượng Hoàng đã bị lãng quên và mờ nhạt.
Thành ban đầu được xây bằng đất, nhưng từ năm 1831, vua Minh Mạng đã cho xây lại bằng đá ong theo phong cách của kiến trúc sư Vauban. Thành có hình thái 6 cạnh, chu vi 603 thước (tương đương 2.412 m), cao 1 thước, 1 tấc, 5 thước (tương đương 4,42 m), diện tích: 420.000 m², được bao quanh bởi hào rộng 7 thước (28 m), sâu 8 thước ta (3,20 m). Khi khởi công, triều đình nhà Nguyễn đã mobilize 1.000 lính Thanh Hóa, 4.000 lính Nghệ An. Vào thời Tự Đức, thành được tu bổ, bổ sung và thay thế 8.599 tấm đá sò từ Diễn Châu và đá ong từ Nam Đàn, 4.848 cân vôi, 155 cân mật mía, với tổng kinh phí là 3.688 quan tiền.
Thành cổ có 3 cửa ra vào: Cửa Tiền là cửa chính hướng về phía Nam, cửa này dành cho vua ngự giá và các quan trong triều đình và tổng đốc ra vào. Cửa Tả hướng về phía Đông, cửa Hữu hướng về phía Tây. Để đi qua các cửa này, mọi người đều phải vượt qua một cây cầu. Bên trong, công trình lớn nhất là hành cung. Phía Đông hành cung có dinh thống đốc, phía Nam có dinh bố chánh và án sát, dinh lãnh binh, dinh đốc học. Phía Bắc có trại lính và nhà ngục. Sau này, phía Tây có nhà giám binh người Pháp. Toàn bộ được trang bị 65 khẩu thần công, trong đó có 47 khẩu đặt ở các vọng gác, số còn lại tập trung ở hành cung và dinh tổng đốc.
Sau nhiều biến cố trong lịch sử và sự tàn phá do chiến tranh, di tích của thành cổ gần như không còn lại gì, chỉ còn lại 3 cổng thành và một số đoạn hào bao quanh. Tỉnh Nghệ An và Thành phố Vinh đã có kế hoạch khôi phục di tích và chuyển đổi thành một công viên văn hóa lớn của thành phố.