
Thập đại đệ tử (chữ Hán: 十大弟子, tiếng Tạng chuẩn: ཉན་ཐོས་ཉེ་འཁོར་བའུ་) là danh xưng dùng để chỉ mười đệ tử quan trọng của Phật Thích-ca Mâu-ni, hay được nhắc nhở trong kinh sách Đại thừa (tiếng Phạn: mahāyāna).
Xuất xứ
Trong các kinh điển Phật giáo, trong quá trình phát triển của Tăng đoàn, đôi khi ghi chép lại những lời ca ngợi của Thích-ca Mâu-ni dành cho các đệ tử nổi bật ở một số khía cạnh. Trong kinh Tăng nhất A-hàm, ghi nhận các đệ tử đứng đầu giáo đoàn về từng khía cạnh khác nhau, được Phật xác nhận, như Kiều-trần-như có pháp lạp cao nhất; Xá-lợi-phất có trí tuệ siêu việt nhất, Mục-kiền-liên thần thông bậc nhất... Thống kê ghi nhận được có cả thảy 41 tì kheo, 13 tì kheo ni, 11 cư sĩ nam và 10 cư sĩ nữ, từng được Phật Thích-ca Mâu-ni khen ngợi như vậy. Một số đệ tử còn được ông giao phó nhiệm vụ thuyết pháp cho các đệ tử khác và một số bài thuyết pháp của các đại đệ tử này được ghi nhận trong các kinh điển.
Danh vị Thập đại đệ tử
Theo sách kinh Phật giáo Bắc truyền, thứ tự danh vị của 10 vị này như sau:
- Ma-ha-ca-diếp (tiếng Trung: 摩訶迦葉, tiếng Nam Phạn: Mahākassapa, tiếng Phạn: mahākāśyapa, tiếng Tạng chuẩn: འོད་སྲུང་ཆེན་པོ་): Đầu-đà (tu khổ hạnh) Đệ nhất, được coi là Sơ tổ Thiền tông Ấn Độ; ông là người yêu cầu mở đại hội kết tập kinh điển lần đầu tiên của Phật giáo.
- Mục-kiền-liên (tiếng Trung: 目犍連, tiếng Nam Phạn: Moggallāna, tiếng Phạn: mahāmaudgalyāyana, tiếng Tạng chuẩn: མོའུ་འགལ་གྱི་བུ་): Thần thông Đệ nhất, hay đi đôi với Xá-lợi-phất; sau khi xuất gia được 7 ngày ông đã đoạn trừ hết các lậu hoặc, chứng quả A-la-hán.
- Phú-lâu-na (tiếng Trung: 富樓那, tiếng Nam Phạn: Pūraṇa, tiếng Phạn: pūrṇa, tiếng Tạng chuẩn: གང་པོ་): Thuyết Pháp Đệ nhất.
- Tu-bồ-đề (tiếng Trung: 須菩提, tiếng Phạn: Subhūti, tiếng Phạn: subhūti, tiếng Tạng chuẩn: རབ་འབྱོར་): Giải Không Đệ nhất. Tu-bồ-đề thường xuất hiện trong kinh điển hệ Bát-nhã-ba-la-mật-đa.
- Xá-lợi-phất (tiếng Trung: 舍利弗, tiếng Nam Phạn: Sāriputta, tiếng Phạn: śāriputra, tiếng Tạng chuẩn: ཤཱ་རིའི་བུ་): Trí huệ Đệ nhất, đệ tử quan trọng nhất của Phật trong các kinh Tiểu thừa; trước khi xuất gia, ông là một luận sư nổi tiếng trong giáo đoàn Bà-la-môn.
- La-hầu-la (tiếng Trung: 羅睺羅, tiếng Nam Phạn: Rāhula, tiếng Phạn: rāhula, tiếng Tạng chuẩn: སྒྲ་གཅན་འཛིན་): Mật hạnh Đệ nhất, ông cũng là người con duy nhất của Thái tử Tất-đạt-đa (sau này thành Đức Phật Thích Ca Mâu Ni).
- A-nan-đà (tiếng Trung: 阿難陀, tiếng Nam Phạn: Ānanda, tiếng Phạn: ānanda, tiếng Tạng chuẩn: ཀུན་དགའ་བོ་): Đa văn Đệ nhất, người 'nghe và nhớ nhiều nhất', được xem là Nhị tổ Thiền tông Ấn Độ. A-nan-đà hay được trình bày trong tranh tượng đứng bên cạnh Phật cùng với Ma-ha-ca-diếp; tuy là Đa văn Đệ nhất nhưng sau khi Đức Phật nhập Niết-bàn ông mới chứng quả A-la-hán rạng sáng ngày kết tập kinh điển đầu tiên.
- Ưu-bà-li (tiếng Trung: 優波離, tiếng Nam Phạn: Upāli, tiếng Phạn: upāli, tiếng Tạng chuẩn: ཉེ་བར་འཁོར་): Giới luật Đệ nhất;
- A-na-luật (tiếng Trung: 阿那律, tiếng Nam Phạn: Anuruddha, tiếng Phạn: aniruddha, tiếng Tạng chuẩn: མ་འགགས་པ་): Thiên nhãn Đệ nhất;
- Ca-chiên-diên (tiếng Trung: 迦旃延, tiếng Nam Phạn: Kātyāyana, tiếng Phạn: katyāyana, tiếng Tạng chuẩn: ཀ་ཏྱའི་བུ་): Biện luận Đệ nhất;
Theo từ điển Phật học lớn, danh vị của 10 đại đệ tử tương tự như sách kinh Phật giáo Bắc truyền, tuy nhiên có sắp xếp thứ tự khác:
- Xá-lợi-phất: Trí huệ đệ nhất
- Mục-kiền-liên: Thần thông đệ nhất
- Ma-ha-ca-diếp: Đầu đà đệ nhất
- A-na-luật: Thiên nhãn đệ nhất
- Tu-bồ-đề: Giải không đệ nhất
- Phú-lâu-na: Thuyết Pháp đệ nhất
- Ca-chiên-diên: Luận nghĩa đệ nhất
- Ưu-bà-li: Trì luật đệ nhất
- La-hầu-la: Mật hành đệ nhất
- A-nan-đà: Đa văn đệ nhất
Các đệ tử lớn khác
Theo sách kinh Pāli, danh sách các đại đệ tử được ghi nhận dài và bao gồm nhiều hơn 10 vị như Thi-bà-la (Sīvali): Đầu đầu đệ nhất (Phước đức đệ nhất),...
Những đệ tử đầu tiên
Trong sách kinh nguyên thủy, có ghi nhận 2 người đầu tiên được Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết giảng sau khi đắc đạo là hai thương nhân là Tapussa (Sa-lệ-phú-ba) và Bhallika (Bấc-lê-ca), đang tháp tùng 500 cỗ xe bò, chở hàng hóa từ vùng Ukkalā đến buôn bán tại miền Majjhimapadesa. Theo nghi lễ tu sĩ bấy giờ, khi gặp vị Tất-đạt-đa Cồ-đàm, họ đã thực hiện lễ cúng dường vật thực cho Ngài và được Ngài thuyết giảng. Nội dung thuyết giảng này không được ghi nhận lại, nhưng truyền thống kể rằng sau khi được thuyết giảng, 2 thương nhân này đã xin Đức Phật ban cho Xá-lợi tóc và Xá-lợi tóc ấy vẫn được tôn thờ cho đến ngày nay tại ngôi chùa Shwedagon (Yangon, Myanmar).
Cũng theo sách kinh nguyên thủy, hai thương nhân này được coi là hai cận sự nam đầu tiên đã quy y Nhị Bảo, gọi là Dvevācikasara-ṇagamana. Sau này, Bhallika xuất gia trở thành Tỳ kheo và chứng quả A-la-hán.