Thất giác chi (pi. sattabojjhanga, zh. qījuézhī 七覺支, ja. shichikakushi, sa. saptabodhyangāni, bo. byang chub yan lag bdun བྱང་ཆུབ་ཡན་ལག་བདུན་) là bảy yếu tố giác ngộ, thuộc nhóm thứ sáu trong ba mươi bảy yếu tố giác ngộ (sa. bodhipākṣikadharma).
Trong truyền thống Phật giáo Đại thừa, Thất giác chi (saptabodhyangāni) được sắp xếp theo thứ tự như sau:
- Trạch pháp (zh. 擇法, sa. dharmapravicaya), phân tích và nhận biết sự khác biệt giữa đúng và sai;
- Tinh tiến (zh. 精進, sa. vīrya), nỗ lực và kiên trì;
- Hỉ (zh. 喜, sa. prīti), tâm trạng vui vẻ;
- Khinh an (zh. 輕安, sa. praśrabdhi), trạng thái tâm trí nhẹ nhàng và thư thái;
- Niệm (zh. 念, sa. smṛti), sự tỉnh thức;
- Định (zh. 定, sa. samādhi), khả năng tập trung và ổn định tâm trí;
- Xả (zh. 捨, sa. upekṣā), sự buông bỏ và không bị câu thúc.
Trong truyền thống Phật giáo Theravada, Thất giác chi (sattabojjhanga) được sắp xếp theo thứ tự như sau:
- Niệm (Sati),
- Trạch Pháp (Dhammavicaya),
- Tinh Tấn (Viriya),
- Hỉ (Piti),
- Khinh An (Passadhi),
- Định (Samadhi),
- Xả (Upekkha)
Các giác chi được gọi như vậy vì chúng dẫn dắt người hành thiền đến sự giác ngộ.
Tương Ưng Bộ Kinh tập V (Sđd., 1982, tr. 64) mô tả các giác chi như sau:
- Chánh niệm về các pháp nội và ngoại gọi là Niệm giác chi.
- Quan sát, phân tích và hiểu biết về các pháp nội và ngoại gọi là Trạch Pháp giác chi.
- Sự tinh tấn của cơ thể và tâm trí gọi là Tinh tấn giác chi.
- Sự hỷ với tâm trí và sự hỷ không có tầm và tứ gọi là Hỷ giác chi.
- Sự khinh an của cơ thể và tâm hồn được gọi là Khinh an giác chi.
- Sự định tĩnh có tầm và tứ cũng như sự định tĩnh không tầm, không tứ gọi là Định giác chi.
- Sự buông xả đối với các pháp nội và ngoại gọi là Xả giác chi.
Tu tập Thất giác chi
- 'Như lý tác ý' là nền tảng để phát triển Niệm giác chi, giúp Niệm giác chi chưa có được hình thành và Niệm giác chi đã có đạt đến sự hoàn thiện. (Tương Ưng V, Sđd., tr. 83*84).
- 'Như lý tác ý' đối với các pháp thiện, bất thiện, liệt, thắng... là yếu tố kích thích Trạch pháp giác chi, làm cho Trạch pháp giác chi chưa có được hình thành và Trạch pháp giác chi đã có đạt đến sự hoàn thiện. (Sđd., tr. 65).
- 'Như lý tác ý' đối với dõng mãnh giới và tinh cần giới (Nikkhammadhàtu), giúp chúng phát triển, là yếu tố kích thích Tinh tấn giác chi, làm cho Tinh tấn giác chi chưa có được hình thành và Tinh tấn giác chi đã có đạt đến sự hoàn thiện. (Sđd., tr. 67).
- 'Như lý tác ý' đối với các pháp là nơi trú xứ cho Hỷ giác chi, giúp Hỷ giác chi đạt được sự hoàn thiện. Đây là yếu tố giúp Hỷ giác chi chưa có được hình thành và Hỷ giác chi đã có đạt đến sự hoàn thiện. (Sđd., tr. 68).
- 'Như lý tác ý' giúp cho thân và tâm được khinh an: đây là yếu tố giúp Khinh an giác chi chưa có được hình thành và Khinh an giác chi đã có đạt đến sự hoàn thiện. (Sđd., tr. 68).
- Nếu 'Như lý tác ý' liên quan đến tịnh chỉ tưởng và bất loạn tưởng, giúp chúng phát triển, đây là yếu tố giúp Định giác chi chưa có được hình thành và Định giác chi đã có đạt đến sự hoàn thiện. (Sđd., tr. 68).
- Có các pháp làm nơi trú xứ cho Xả giác chi. Nếu 'Như lý tác ý' làm cho chúng phát triển, đây là yếu tố giúp Xả giác chi chưa có được hình thành và Xả giác chi đã có đạt đến sự hoàn thiện. (Sđd., tr. 68).
Bảy giác chi cần phải được tu tập liên tục, dựa vào giới, và an trú trên giới, tức là tu tập Bảy giác chi theo hướng ly tham, từ bỏ. (Theo Tương Ưng V, Sđd., 64).
Hành giả cần lưu ý rằng Thất giác chi phải được tu tập theo trình tự, nhưng cũng có thể tu tập từng phần một cách độc lập.
Khi cơ thể và tâm trí sống xa rời các dục lạc, Niệm giác chi được tu tập để đạt đến sự hoàn thiện. Hành giả duy trì chánh niệm như vậy, cùng với trí tuệ phân tích và quyết trạch, sẽ đạt được sự quán sát pháp. Tại đây, Trạch pháp giác chi bắt đầu xuất hiện. Khi hành giả với trí tuệ phân tích và quyết trạch về pháp, thì Tinh tấn giác chi bắt đầu phát triển. Khi hành giả tinh cần tu tập Tinh tấn giác chi đến mức hoàn thiện, Hỷ giác chi bắt đầu xuất hiện. Khi Hỷ giác chi đạt đến sự hoàn thiện, hành giả sẽ cảm nhận được sự khinh an của cơ thể và tâm trí, và Khinh an giác chi bắt đầu xuất hiện. Khi Khinh an giác chi đạt đến mức hoàn thiện, hành giả sẽ trải nghiệm sự lạc thọ, tâm trở nên định tĩnh, và Định giác chi bắt đầu xuất hiện. Khi Định giác chi đạt đến mức hoàn thiện, hành giả sẽ có khả năng xả bỏ và Xả giác chi bắt đầu phát triển. Nhờ vào việc tu tập Xả, Xả giác chi đạt đến sự hoàn thiện. (Theo Tương Ưng V, Sđd., tr. 69-70).
Tôn giả Upavàna từng dạy: 'Khi một Tỷ-kheo khởi Niệm giác chi, người đó sẽ thấy tâm mình được giải thoát rõ ràng, những trạng thái thụy miên, hôn trầm được xua đuổi hiệu quả, trạo hối trong tâm được kiểm soát tốt, và tinh tấn bắt đầu phát triển. Với sự dụng tâm tác ý vào giác chi này, nó sẽ không bị suy giảm.' (Sđd., tr. 69-70)
Tương tự như vậy đối với Trạch pháp, Tinh tấn, Hỷ, Khinh an, Định và Xả giác chi.
Về việc tu tập từng giác chi một, Thế Tôn dạy rằng:
'Khi một Tỷ-kheo thực hành Niệm giác chi với sự viễn ly, từ bỏ, và đoạn trừ khát ái, thì tâm sẽ hướng đến sự quảng đại, vô lượng, không sân hận. Khi khát ái được đoạn trừ, nghiệp cũng được tiêu diệt. Do đó, khổ đau cũng sẽ được chấm dứt.' (Tương Ưng V, Sđd., 68, 69-70).
Tương tự, áp dụng phương pháp này cho sáu giác chi còn lại.
Con đường tu tập Thất giác chi luôn phải gắn liền với sự tác ý viễn ly, từ bỏ, đoạn trừ tham ái để đạt đến Diệt đế. Mục tiêu chính của sự giải thoát là loại bỏ khát ái. Khi khát ái được loại bỏ, thì chấp thủ và vô minh cũng sẽ được tiêu diệt.
Chánh niệm là nền tảng cho việc tu tập các pháp môn như Tứ niệm xứ, Tứ như ý túc, Ngũ căn, Ngũ lực, Thất giác chi và Bát Chánh đạo.
Đặc điểm nổi bật của việc tu tập Thất giác chi liên quan đến việc từ bỏ tham ái là chỉ cần thực hành một giác chi cũng đủ để đạt được sự thấy biết chân thực và giải thoát khỏi khổ đau.
'Việc thực hành một giác chi đã có thể đạt được mục tiêu của đời sống phạm hạnh, huống chi khi thực hành cả Thất giác chi.' (Theo Tương Ưng V, Sđd., tr. 68, 69-70).
Tuy nhiên, trong quá trình tu tập, tâm lý của hành giả thường xuyên thay đổi và có thể xuất hiện theo những dạng tích cực hoặc tiêu cực. Do đó, việc thực hành Thất giác chi cần được thực hiện một cách khéo léo. Nguyên tắc để chuyển đổi tâm lý là nguyên tắc đối trị, tức là thực hiện những phương pháp đối trị một cách chính xác khi tâm lý cần được điều chỉnh theo pháp môn đối trị tương ứng.
Ví dụ, để đối trị trạng thái hôn trầm, cần sử dụng sự tập trung và tư duy; khi đối phó với sự tức giận, nên thực hành quán từ bi. Trong việc tu tập Thất giác chi, nếu hành giả cảm thấy mệt mỏi và thụ động, thì việc thực hành Hỷ giác chi, Trạch pháp giác chi, và Tinh tấn giác chi là cần thiết. Ngược lại, nếu hành giả gặp phải sự dao động trong tâm lý, thì việc tập trung vào Xả, Khinh an, và Định giác chi là phù hợp, còn Trạch pháp, Tinh tấn, và Hỷ giác chi có thể không hiệu quả.
Niệm giác chi là một trong những giác chi đặc biệt mà hành giả có thể áp dụng trong bất kỳ điều kiện tâm lý nào. Điều này cho thấy Niệm giác chi là một pháp môn tu tập phổ biến và thích ứng với nhiều căn cơ trong mọi hoàn cảnh.
Nếu pháp môn tu tập không phù hợp với căn cơ của hành giả, kết quả có thể không đạt được hoặc thậm chí gây thêm vấn đề. Thế Tôn đã so sánh việc thực hành Xả, Khinh an và Định giác chi khi tâm lý thụ động giống như cố gắng nhen lửa bằng cỏ và củi ướt trong mưa. Ngược lại, việc thực hành Hỷ, Tinh tấn và Trạch pháp giác chi khi tâm lý dao động thì như việc dập tắt lửa đang cháy bằng cách thêm cỏ khô, củi khô và thổi vào lửa. (Theo Tương Ưng V, Sđd., 90-91)
Cũng như vật lý, tâm lý cũng tuân theo những quy luật riêng biệt. Hành giả cần chú ý theo dõi những quy luật này để áp dụng pháp môn tu tập phù hợp, khéo léo nhằm đạt được giải thoát ngay trong cuộc đời này.
Một điểm đặc biệt của Thất giác chi là pháp môn này có thể được kết hợp với Tứ vô lượng tâm (từ, bi, hỷ, xả). Khi thực hành mỗi giác chi liên quan đến sự từ bỏ, đoạn diệt, hành giả có thể chú tâm vào tưởng bất tịnh hoặc tịnh trong tất cả các pháp, hoặc thực hành xả, chánh niệm với tất cả pháp. Nếu kết hợp Thất giác chi với Từ tâm, hành giả sẽ đạt được sự giải thoát từ tâm và đạt tới Đệ Tứ Thiền sắc giới. Với Bi tâm, hành giả sẽ đạt Không vô biên xứ. Với Hỷ tâm, hành giả sẽ đạt Thức vô biên xứ. Và với Xả tâm, hành giả sẽ đạt Vô sở hữu xứ. (Theo Tương Ưng V, Sđd., tr. 123-125).
Khi kết hợp Thất giác chi với Tứ vô lượng tâm, hành giả chắc chắn sẽ không rơi vào trạng thái Phi tưởng phi phi tưởng xứ.
Theo Kinh Trung Bộ I, hành giả khi ở cảnh giới Vô sở hữu xứ và muốn vượt qua Phi tưởng phi phi tưởng xứ để đạt Diệt thọ tưởng định thì cần thực hành Tứ vô lượng tâm. Mặc dù có sự khác biệt so với phần trình bày trong Tương Ưng V, nhưng điểm quan trọng là việc thực hành Tứ vô lượng tâm giúp hành giả không rơi vào trạng thái Phi tưởng phi phi tưởng. Các cảnh giới Thiền này liên quan đến tâm giải thoát, và nếu hành giả sử dụng Thiền quán để đoạn trừ các kiết sử và lậu hoặc, họ có thể vào thẳng Diệt thọ tưởng định và đạt được Chánh trí, Giải thoát.
Khi tu tập Thất giác chi đầy đủ, hành giả sẽ đạt được bảy kết quả và lợi ích sau đây:
1. Ngay lập tức trong hiện tại có thể đạt được Chánh trí.
2. Nếu không đạt được ngay, thì sẽ có cơ hội đạt Chánh trí khi lâm chung.
3. Nếu không đạt được như vậy, khi lâm chung, hành giả có thể đoạn tận năm hạ phần kiết sử và đạt Trung gian Bát-niết-bàn (Antaràparinibbàyi).
4. Nếu không đạt được như vậy, khi lâm chung, sau khi đoạn tận năm hạ phần kiết sử, hành giả có thể chứng đắc Tổn hại Niết-bàn (Upahaccaparinibbàyi).
5. Nếu vẫn không đạt được, khi lâm chung, sau khi đoạn tận năm hạ phần kiết sử, hành giả sẽ chứng đạt Vô hành Niết-bàn (asankhàraparinibbàyi).
6. Nếu không đạt được như vậy, khi lâm chung, sau khi đoạn tận năm hạ phần kiết sử, hành giả sẽ chứng được Hữu hành Niết-bàn (Sankhàraparinibbàyi).
7. Nếu vẫn không đạt được, khi lâm chung, sau khi đoạn tận năm hạ phần kiết sử, hành giả sẽ trở thành bậc Thượng lưu (Uddhasoto) và đạt được Sắc cứu cánh thiên.
(Theo Tương Ưng Bộ V, Sđd., tr. 71-72).
Một Điểm Nổi Bật của Thất Giác Chi.
(Kinh Tương Ưng Bộ V, phần nói về bệnh, tr. 82-83, do Thích Minh Châu dịch, ghi nhận một số trường hợp Thất giác chi đã giúp các bậc Thánh vượt qua những căn bệnh nặng, trong khi các pháp môn khác không thể làm được).
Tôn giả Đại Ca-diếp (Mahà Kassapa) mắc bệnh nặng, đau đớn đến mức khó chịu đựng. Khi Thế Tôn đến thăm và trình bày ngắn gọn về Thất giác chi, ngay sau khi nghe xong, Tôn giả đã khỏi bệnh.
Một lần Thế Tôn bị bệnh nặng, khi Tôn giả Đại Thuần-đà (Mahà Cunda) đến phục vụ Thế Tôn, Thế Tôn yêu cầu Tôn giả giảng về Thất giác chi. Nghe xong giảng về Thất giác chi, Thế Tôn ngay lập tức khỏi bệnh.
Kinh Tương Ưng không giải thích lý do tại sao Thất giác chi lại có khả năng chữa bệnh một cách kỳ diệu như vậy. Kinh cũng không chỉ rõ liệu khả năng chữa bệnh này chỉ xảy ra với bậc Thánh hữu học hay cũng có thể xảy ra với bậc hành giả tùy pháp, tùy tín.
Nếu các yếu tố như hỷ, xả, khinh an, định và tinh tấn giúp bậc Thánh vượt qua bệnh tật, tại sao Tứ niệm xứ, Ngũ căn, Ngũ lực... không nhắc đến đặc tính chữa bệnh này? Có thể khi bậc Thánh vô học nghe về Thất giác chi, cơ thể sẽ cảm nhận được sự khinh an đặc biệt, từ đó làm giảm cơn bệnh không?
Con đường thực hành Thất giác chi là con đường trải đầy hạnh phúc giải thoát qua hỷ, khinh an, lạc và định. Mỗi bước chân của hành giả trên con đường giải thoát là một bước đi nhẹ nhàng của khinh an, lạc và hỷ. Hành giả đã biến những điều vô thường, khổ đau của đời sống thành chất liệu để giải thoát qua tịnh tưởng và bất tịnh tưởng, từ bỏ tham, sân và trú tâm vào từ, bi, hỷ và xả qua chánh niệm. Hành giả đã biến những khó khăn, thử thách thành nguồn lực cho tinh tấn; đã biến những rối ren của cuộc sống thành chất liệu cho Trạch pháp giác chi; đã biến những nghịch cảnh thành động lực cho Xả, Định và Khinh an giác chi.
Tóm lại, nếu Thất giác chi được thực hành đúng cách, nó có thể biến khổ đau sinh tử thành giải thoát, Niết-bàn ngay trong hiện tại. Việc thiết lập các nơi thực hành Thất giác chi giữa thế giới đầy mê muội và khổ đau giống như việc xây dựng những nhà máy ánh sáng để lan tỏa giác ngộ và giải thoát. Tất cả các công việc chuyển hóa đều nằm trong chúng ta, chờ đợi sự giác tỉnh và quyết tâm của hành giả ngay ở hiện tại, trong đời này.
- Fo Guang Ta-tz'u-tien 佛光大辭典. Fo Guang Ta-tz'u-tien pien-hsiu wei-yuan-hui 佛光大辭典編修委員會. Taipei: Fo-Guang ch'u-pan-she, 1988. (Phật Quang Đại Từ điển. Phật Quang Đại Từ điển biên tu uỷ viên hội. Đài Bắc: Phật Quang xuất bản xã, 1988.)
- Das Lexikon der Östlichen Weisheitslehren, Bern 1986.