Cấu trúc ý
I - GIỚI THIỆU
- Đánh giá vị trí của bài thơ Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc trong sự nghiệp văn học và cuộc đời của Nguyền Đình Chiểu.
- Giới thiệu ý kiến của Đồng chí Phạm Văn Đồng.
II- PHẦN CHÍNH
1. Thân thể, tình hình khó khăn của người nông dân nghĩa quân Cần Giuộc.
- Những người nông dân vô cùng bình thường, “cui cút sống, toan lo cực khổ”.
- Sơ sài về kiến thức về quân sự, ít được đào tạo, huấn luyện.
- Sơ sài về vũ khí, trang bị.
- Đảm nhận trách nhiệm chiến đấu, cứu nước giữa thời kỳ chính trị rối ren, phản bội của triều đình, đối mặt với sự hung ác, xâm lược của kẻ thù.
2. Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc - Bản ca hùng bi tráng về những con người kiên cường, dũng cảm.
- Tham gia trận đấu và hy sinh một cách tự nguyện, với những trang bị vô cùng đơn giản.
- Tinh thần chiến đấu quả cảm hiếm thấy được mô tả trong cảm xúc tự hào, hào hứng của Nguyễn Đình Chiểu.
- Sức mạnh lớn lao để người nghĩa sĩ hy sinh cao cả như vậy là do lòng căm thù sâu sắc với kẻ thù, là sự nhận thức chính xác về ý nghĩa của cuộc sống và cái chết.
3. Tinh thần bi kịch của Nguyễn Đình Chiểu khi sáng tác Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc.
- Buồn bã, đau xót trước sự hi sinh của những người anh hùng.
- Tôn trọng, tự hào trước tấm gương 'vĩ đại hàng nghìn năm”.
III- KẾT LUẬN
- Xác nhận tầm quan trọng đặc biệt của bài thơ Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc trong lịch sử văn học dân tộc: Lần đầu tiên tạo nên một bức tượng nghệ thuật đầy tính cách mạnh mẽ về những người nông dân chiến đấu chống giặc để bảo vệ đất nước.
Mẫu văn
Nguyễn Đình Chiểu không chỉ là một nhà Nho tiết tháo mà còn là một nhà thơ với lòng yêu nước sâu sắc. Xót xa trước sự hy sinh của các anh hùng cho đất nước, ông đã sáng tác 'Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc' để bày tỏ sự tiếc nuối. Nhận xét về tác phẩm, đồng chí Phạm Văn Đồng nhấn mạnh rằng: 'Bài thơ là bản ca của những người bất hạnh nhưng vẫn kiêu hãnh'.
Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc được viết ra trong tình hình đau buồn cực độ. Cuộc kháng chiến chống Pháp bùng nổ, vào đêm rằm tháng 11 năm Tân Dậu, nhiều nông dân tập kích đồn giặc ở Cần Giuộc. Sự nổi dậy đã khiến một quan Pháp và nhiều binh lính bị tiêu diệt, nhưng cũng đã đem lại cái chết cho 20 người anh hùng. Bài thơ được đọc trong lễ truy điệu, gây ra nỗi đau lòng cho mọi người.
Đầu tiên, trong những người anh hùng ấy, đọc giả có thể nhận ra tinh thần can đảm đáng kinh ngạc. Họ, ban đầu chỉ là những nông dân mặc quần áo lụa và không biết gì về quân lính:
'Cui cút làm ăn, toan lo nghèo khó'
Chưa hề được đào tạo quân sự, chỉ biết cày ruộng, chăn trâu'
Thế nhưng, khi nghe tiếng súng địch, họ đầy căm thù 'như trời hạn mưa', 'ghét chính phủ như nông dân ghét cỏ'. Điều này thể hiện sự nhận thức sâu sắc về chủ quyền dân tộc, khi họ tham gia trận chiến với lòng dũng cảm đặc biệt: 'Ngoài cật có một tấm áo lụa', 'trong tay cầm một cán cây liều'. So với vũ khí hiện đại và trang bị của đối thủ, họ chỉ sử dụng những gì có sẵn và lòng dũng cảm không ngừng: 'Chém rớt đầu quan, đâm vào cửa nhà kẻ thù, không sợ súng đạn, xông vào mặc kệ tàu sắt súng đồng'.
Qua bút pháp của Nguyễn Đình Chiểu, người nông dân được tôn vinh với những thành tựu vĩ đại, nhưng cũng không thể tránh khỏi nỗi đau khổ: 'Đoái sông Cần Giuộc: Sầu đầy dặm, nhìn thấy những nơi bị cướp dễ dàng. Nhìn thấy khu chợ Trường Bình vắng vẻ, cả già trẻ đều gục đầu trong nỗi buồn'. Nỗi đau đó càng tăng khi gia đình mất đi một người thân: 'Đau đớn thật! Mẹ già ngồi khóc, ngọn đèn khuya rọi trong nhà; không ngừng tìm kiếm chồng, người vợ yếu đuối đứng ngoài cửa tìm kiếm'.
Mỗi khi nhìn thấy những thảm kịch của những người nghĩa sĩ, Nguyễn Đình Chiểu càng ca ngợi họ, vẻ đẹp hùng hổ và lòng trung hiếu của họ đã, đang và sẽ mãi mãi tồn tại, như một sự thật không thể thay đổi. Bài thơ vì vậy trở nên đau đớn nhưng cũng rất cao cả.
Đúng vậy, nhận xét của đồng chí Phạm Văn Đồng về những người nghĩa sĩ là hoàn toàn chính xác. Dù chiến thắng của họ không lâu dài, tinh thần kiêu hãnh của họ sẽ mãi mãi tồn tại. Tượng đài vĩ đại đó sẽ mãi mãi sống trong lòng dân tộc.'
Nguồn: Sưu tầm