Hữu Lũng
|
|||
---|---|---|---|
Huyện | |||
Huyện Hữu Lũng | |||
Hành chính | |||
Quốc gia | Việt Nam | ||
Vùng | Đông Bắc Bộ | ||
Tỉnh | Lạng Sơn | ||
Huyện lỵ | Thị trấn Hữu Lũng | ||
Phân chia hành chính | 1 thị trấn, 23 xã | ||
Địa lý | |||
Tọa độ: | |||
| |||
Diện tích | 806,74 km² | ||
Dân số (2019) | |||
Tổng cộng | 121.735 người | ||
Thành thị | 10.165 người | ||
Nông thôn | 111.570 người | ||
Mật độ | 151 người/km² | ||
Khác | |||
Mã hành chính | 186 | ||
Biển số xe | 12-H1 | ||
Website | huulung | ||
Thị trấn Hữu Lũng là một đơn vị hành chính thuộc huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn, Việt Nam.
Đặc điểm địa lý
Huyện Hữu Lũng nằm ở phía tây nam tỉnh Lạng Sơn, cách thành phố Lạng Sơn khoảng 80 km về phía tây nam, và cách trung tâm thành phố Hà Nội khoảng 95 km. Vị trí địa lý của huyện là:
- Phía đông giáp huyện Chi Lăng và huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang
- Phía tây giáp huyện Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên và huyện Yên Thế, tỉnh Bắc Giang
- Phía nam giáp huyện Lục Nam và huyện Lạng Giang thuộc tỉnh Bắc Giang
- Phía bắc giáp huyện Bắc Sơn và huyện Văn Quan.
Huyện Hữu Lũng có diện tích 806,74 km², dân số vào năm 2019 là 121.735 người. Tỉnh lộ 244 theo hướng tây bắc đi huyện Võ Nhai (Thái Nguyên) và tỉnh lộ 242 theo hướng tây nam đi huyện Yên Thế, tỉnh Bắc Giang.
Hữu Lũng là huyện miền núi nằm ở phía tây nam tỉnh Lạng Sơn, cách thành phố Lạng Sơn 80 km, thuộc dải đất nối liền vùng trung du và vùng đồng bằng Bắc bộ nước ta. Phía đông giáp huyện Chi Lăng và huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang, phía tây giáp huyện Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên và huyện Yên Thế, tỉnh Bắc Giang, phía nam giáp huyện Lục Nam và huyện Lạng Giang thuộc tỉnh Bắc Giang, phía bắc giáp huyện Bắc Sơn và huyện Văn Quan.
Địa hình gồm ba vùng: vùng núi đá chạy từ Đông - Bắc xuống Đông - Nam, vùng núi đất thuộc các xã phía Đông Nam và Tây Nam, vùng thung lũng ruộng đồng bao gồm các xã chạy dọc Quốc lộ 1.
Khí hậu trên địa bàn huyện thuộc tiểu vùng khí hậu núi thấp phía Nam. Có nền nhiệt độ trung bình hàng năm 22,7 °C, lượng mưa lớn bình quân hàng năm từ 1.500 - 2.000 mm, độ ẩm cao 83%.
Tổng diện tích đất tự nhiên trên vùng đất của huyện là 806,74 km², chủ yếu là đồi núi thấp. Trong đó, diện tích đồi núi đá chiếm 41,9% tổng diện tích đất tự nhiên với 33.056 ha, diện tích đồi núi đất chiếm 57,3% với 45.223 ha. Đất trên vùng đất của huyện phân bố chủ yếu vào bốn loại chính: đất đỏ vàng trên đá sét (Fs) 18.691 ha, đất vàng nhạt trên đá cát (Fq) 9.021 ha, đất vàng đỏ trên đá mác axit (Fa) 7.080 ha, và đất đỏ nâu trên đá vôi (Fv) 4.350 ha.
Theo số liệu năm 2000, tổng diện tích đất đang sử dụng của huyện là 43.760 ha, chiếm 55,4% tổng diện tích đất tự nhiên. Trong đó, đất nông nghiệp chiếm 32,7% với 14.310 ha, đất lâm nghiệp chiếm 59,3% với 25.940 ha, và đất ở chiếm 700 ha. Diện tích đất chưa sử dụng là 35.166 ha, trong đó có 12.689 ha đất có khả năng sử dụng để phát triển sản xuất nông nghiệp và lâm nghiệp.
Hệ thống sông suối của huyện rất phong phú; Chi lưu sông Thương bắt nguồn từ dãy núi Na Pa Phước, cao 600m, bắt đầu chảy từ chân đèo Nả Tần. Từ Làng Nác trở đi, sông chảy qua giữa hai dãy núi, với dãy núi Cai Kinh về phía Hữu và dãy núi Bảo Đài về phía Tả, rồi chảy vào địa phận tỉnh Bắc Giang.
Sông Thương chảy qua huyện Hữu Lũng với hai nhánh lớn là sông Hóa và sông Trung, cùng nhiều suối nhỏ đổ vào.
I. HỮU NGẠN SÔNG THƯƠNG:
1- Suối Tiên Hồ, bắt nguồn từ núi Tiên Hồ
2- Suối Mỏ Phiếu, bắt nguồn từ đèo Loi, rồi chảy ngầm qua đèo Mỏ Phiếu và tiếp tục chảy theo dãy núi Cai Kinh ra sông Thương.
3- Sông Trung: Bắt nguồn từ Thái Nguyên, chảy qua núi đá thuộc vòng cung Bắc Sơn đến Na Hoa rồi đổ vào sông Thương.
Sông Róng (hay còn gọi là sông Trung) có nhiều suối đổ vào:
a- Suối Luộc chảy qua lòng hầm đất đến làng Nỷ rồi đổ vào sông
b- Suối Đầu Rồng: Chảy ngầm qua đèo Váo
c- Suối Thục
d- Suối Làng Hét
4- Suối Tung
5- Suối Rùa
6- Suối Ngao
II. TẢ NGẠN SÔNG THƯƠNG:
1- Sông Hóa bắt nguồn từ vùng núi Khuổi Ma, cao 475m
2- Suối Nghè
3- Suối Ken
4- Suối Thổ
5- Suối Vị
6- Suối Minh
7- Suối Ngạn
Tài nguyên khoáng sản trên vùng đất của huyện bao gồm đá vôi với hàm lượng CaO = 55%, trữ lượng khoảng 14 triệu tấn; đất sét có trữ lượng khoảng 9,8 triệu tấn, là nguyên liệu chính để sản xuất xi măng. Ngoài ra, trên vùng đất của huyện còn có nguồn cát, sỏi được phân bổ ở các xã ven đường quốc lộ 1A là nguồn nguyên liệu để phát triển ngành sản xuất vật liệu xây dựng của huyện và tỉnh.
Theo thống kê năm 2000, dân số trên địa bàn huyện là 108.527 người, tỷ lệ tăng dân số trung bình hàng năm là 1,12%, trong đó: lao động trong độ tuổi là 49.967 người, chiếm 46% dân số. Mật độ dân cư ở vùng thấp là 200 - 300 người/km² và ở vùng đồi núi là 40 - 60 người/km².
Trên địa bàn huyện, tỷ lệ lao động được đào tạo rất thấp chỉ có 8%, lao động chưa có việc làm chiếm 9,2%. Số lao động sinh sống trong thành thị chiếm 12% tổng số lao động trong độ tuổi. Lao động hoạt động trong ngành nông lâm nghiệp là 37.562 người, chiếm 75%; trong thương mại dịch vụ là 7.145 người, chiếm 14,3%.
Lịch sử
Từ triều đại Lý (1009 – 1225), sau khi rời cố đô Hoa Lư (Ninh Bình) để lập thành phố Thăng Long, vua Lý Thái Tổ chia đất nước thành 24 lộ, trong đó lộ Lạng Giang có địa giới hành chính gần trùng với các tỉnh Bắc Giang, Hưng Yên, Hải Dương ngày nay, quản lý bao gồm 03 châu là châu Lạng Giang, Nam Sách, Thượng Hồng và 05 huyện. Châu Lạng Giang bao gồm 04 huyện: huyện Yên Thế, Yên Ninh, Cổ Lũng (Hữu Lũng ngày nay), Bảo Lộc. Cuối thời nhà Trần và đầu thời nhà Hồ, Hữu Lũng có tên gọi là Cổ Lũng nằm trong phủ Lạng Giang, lộ Bắc Giang. Vào thế kỷ XIV, khi nhà Minh (Trung Quốc) xâm lược nước ta, Cổ Lũng nằm trong phủ Lạng Giang, lộ Bắc Giang. Thời nhà Lê, vua Lê Thánh Tông là hoàng đế thứ năm của triều đại Lê, trị vì đất nước từ ngày 26 tháng 6 năm 1460 – 1497, từ năm 1460 – 1469 vua Lê lấy niên hiệu là Quang Thuận, thời kỳ này lộ Bắc Giang được đổi thành thừa tuyên Bắc Giang, huyện Cổ Lũng thuộc phủ Lạng Giang, thừa tuyên Bắc Giang. Năm 1469 vua Lê Thánh Tông cho vẽ lại bản đồ và đổi tên đơn vị hành chính từ thừa tuyên Bắc Giang thành trấn Kinh Bắc. Phủ Lạng Giang thuộc trấn Kinh Bắc, bao gồm 06 huyện: Phượng Nhân, Hữu Lũng, Bảo Lộc, Yên Thế, Lục Ngạn, Yên Dũng. Huyện Hữu Lũng thuộc phủ Lạng Giang, trấn Kinh Bắc có 25 xã, trụ sở hành chính của huyện đặt tại tổng Hữu Thượng( ). Vào năm 1839, vua Minh Mạng lần thứ 20 đã giảm bớt huyện, Hữu Lũng do phủ Lạng Giang kiêm lý, lãnh 04 tổng là Vân Nham, Thuốc Sơn, Hữu Thượng, Hương Vĩ và 30 xã, thôn, trại. Huyện lỵ đặt tại tổng Hữu Thượng. Năm 1822, trấn Kinh Bắc được đổi thành trấn Bắc Ninh. Năm 1831, trấn Bắc Ninh đổi thành tỉnh Bắc Giang, huyện Hữu Lũng thuộc phủ Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang.
Năm 1858, thực dân Pháp xâm lược nước ta, sau khi chiếm xong tỉnh Bắc Ninh chính quyền thực dân cắt toàn bộ đất đai của Hữu Lũng, Lục Ngạn và Bảo Lộc để thành lập tỉnh Lục Nam vào ngày 05 tháng 11 năm 1889. Đến tháng 8 năm 1891, tỉnh Lục Nam được thay đổi bằng đạo quân quan binh Phả Lại để phù hợp với yêu cầu chiến tranh của bọn thực dân phong kiến. Ngày 10 tháng 10 năm 1895, giải tán đạo quân quan binh Phả Lại, khi đó tỉnh Bắc Giang được thành lập, phần đất Hữu Lũng lại sáp nhập với Lạng Giang trở thành huyện Kế Từ. Ngày 11 tháng 4 năm 1900, Hữu Lũng được trả lại tên gọi xưa và nằm trong tỉnh Bắc Giang, năm 1908 đổi thành châu Hữu Lũng. Từ đó đến trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Hữu Lũng là 01 châu thuộc tỉnh Bắc Giang, với 02 tổng là Thuốc Sơn và Vân Nham.
Sau Cuộc cách mạng Tháng Tám năm 1945, Hữu Lũng trở thành một huyện thuộc tỉnh Bắc Giang với tổng cộng 15 xã, bao gồm: Chiêu Tuấn, Cù Sơn, Chi Quan, Tiên Lệ, Hòa Lạc, Thuốc Sơn, Khuôn Lâu, Nhật Lãng, Minh Lễ, Vân Nham, Thiện Kỵ, Vô Muộn, Bảo Lộng, Đằng Yên và Đằng Sơn.
Vào cuối năm 1948, huyện đã sáp nhập 15 xã thành 09 xã, gồm: Tuấn Sơn, Chi Tiên, Hòa Lạc, Cai Kinh, Nhật Minh, Vân Nham, Thiện Kỵ, Yên Bình và Yên Vượng.
Vào tháng 11 năm 1953, huyện lại chia 09 xã thành 24 xã, bao gồm: Cai Kinh, Đô Lương, Đồng Tân, Đồng Tiến, Hồ Sơn, Hòa Bình, Hòa Lạc, Hòa Sơn, Hòa Thắng, Minh Hòa, Minh Sơn, Minh Tiến, Nhật Tiến, Quyết Thắng, Sơn Hà, Tân Lập, Tân Thành, Thanh Sơn, Thiện Kỵ, Vân Nham, Yên Sơn, Yên Thịnh, Yên Vượng và Yên Bình.
Trước đây, Hữu Lũng thuộc tỉnh Bắc Giang, nhưng từ ngày 29 tháng 7 năm 1956, huyện đã nhập vào tỉnh Lạng Sơn, trực thuộc khu tự trị Việt Bắc.
Ngày 19 tháng 1 năm 1965, thị trấn Hữu Lũng được thành lập bao gồm các xóm An Ninh, Tập Lập, Cầu Mười, khu nhà Trạm, nhà thờ cũ thuộc xóm Gai của xã Sơn Hà và các xóm Tân Mỹ, Na Đâu của xã Đồng Tân.
Vào năm 1975, hai tỉnh Cao Bằng và Lạng Sơn được hợp nhất thành tỉnh Cao Lạng. Huyện Hữu Lũng trở thành một phần của tỉnh Cao Lạng và đến năm 1978, lại được tách ra thành hai tỉnh như trước.
Vào ngày 11 tháng 9 năm 1989, xã Hữu Liên chuyển từ huyện Chi Lăng về huyện Hữu Lũng quản lý.
Vào ngày 1 tháng 1 năm 2020, xã Đô Lương được sáp nhập vào xã Vân Nham, cùng với việc sáp nhập xã Thiện Kỵ và Tân Lập thành xã Thiện Tân.
Vào ngày 8 tháng 9 năm 2022, Ủy ban nhân dân tỉnh Lạng Sơn ban hành Quyết định số 1470/QĐ-UBND công nhận thị trấn Hữu Lũng là đô thị loại V trực thuộc tỉnh Lạng Sơn. Theo quyết định này, thị trấn Hữu Lũng được coi là trung tâm hành chính, kinh tế, văn hóa, giáo dục, y tế, du lịch và giao thông của huyện, có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội của Hữu Lũng.
Huyện Hữu Lũng hiện nay bao gồm một thị trấn và 23 xã.
Hành chính của huyện
Huyện Hữu Lũng bao gồm 24 đơn vị hành chính cấp xã, gồm có thị trấn Hữu Lũng (huyện lỵ) và 23 xã: Cai Kinh, Đồng Tân, Đồng Tiến, Hồ Sơn, Hòa Bình, Hòa Lạc, Hòa Sơn, Hòa Thắng, Hữu Liên, Minh Hòa, Minh Sơn, Minh Tiến, Nhật Tiến, Quyết Thắng, Sơn Hà, Tân Thành, Thanh Sơn, Thiện Tân, Vân Nham, Yên Bình, Yên Sơn, Yên Thịnh, Yên Vượng.
Giao thông và vận tải
Huyện có Quốc lộ 1, đường sắt Hà Nội - Đồng Đăng và đường cao tốc Bắc Giang – Lạng Sơn đi qua.
Văn hoá và xã hội
Huyện Hữu Lũng là địa phương có nhiều lễ hội như:
- Hội chợ diễn ra tại thị trấn Hữu Lũng vào ngày 12/1 âm lịch, ngày 27/3 âm lịch, ngày 12 tháng 8 âm lịch và ngày quốc khánh 2 tháng 9 dương lịch
- Hội chợ Phổng tại xã Vân Nham diễn ra vào ngày 20 tháng giêng
- Hội chợ Bắc Lệ tại xã Tân Thành diễn ra vào ngày 15 tháng giêng
Có nhiều đền và hội đền nổi tiếng như:
- Hội đền Bắc Lệ tại xã Tân Thành
- Đền Suối Ngang tại xã Hoà Thắng
- Đền Quan Giám Sát và Đền 94 tại xã Hoà Lạc
- Đền Ba Nàng tại xã Cai Kinh
- Hội Trò Ngô tại xã Yên Thịnh.
Các liên kết ngoài
Đơn vị hành chính cấp huyện trực thuộc tỉnh Lạng Sơn |
---|
Xã, thị trấn thuộc huyện Hữu Lũng |
---|