Nón Bài Thơ là một loại nón lá đặc biệt ở Huế, khi soi ánh sáng thì hiện ra những bài thơ hay hình ảnh hoa văn được tạo khéo léo, bố cục cân đối giữa hai lớp lá của nón.
Đặc điểm nổi bật
Nón bài thơ Huế có dáng thanh tao, mềm mại, màu sắc trắng xanh mát dịu của lá và hình hoa văn được tạo khéo léo, bố cục cân đối giữa hai lớp lá. Chỉ khi soi sáng mới lộ diện vẻ đẹp đầy thi vị này. Việc làm nên những chiếc nón bài thơ này là một nghệ thuật đòi hỏi sự kỹ càng và tài nghệ của những nghệ nhân.
Lịch sử hình thành
Từ lâu đời, với nhu cầu cuộc sống của các triều đại nhà Nguyễn kéo dài suốt 143 năm (1802 – 1945) và sự phân công lao động trong xã hội, nhiều làng nghề thủ công nổi tiếng ở vùng đất Huế đã hình thành, phát triển và tồn tại cho đến ngày nay. Trong đó có những làng nghề làm nón truyền thống như Phủ Cam, Đốc Sơ, Dạ Lê, Kim Long, Tây Hồ và làng nón Bài Thơ.
Vẫn chưa có câu trả lời chính xác nhất về thời điểm ra đời của nghề làm nón. Tuy nhiên, theo ghi chép của Lê Quý Đôn trong 'Phủ biên tạp lục', nhận xét về chiếc nón lá xứ Thuận Hóa vào thế kỷ XVI, XVII đã cho thấy nghề làm nón lá Huế đã có từ hơn 300 - 400 năm trước đó.
Nghề làm nón ở Huế bắt nguồn từ nhu cầu của đời sống dân gian. Nón là vật dụng tiện lợi, phù hợp với khí hậu nhiệt đới, giá cả lại phải chăng, vì thế, nón Huế được ưa chuộng rộng rãi. Chúng xuất hiện ở khắp mọi nơi, từ cánh đồng lúa chín vàng ươm đến những chốn đền đài lăng tẩm khắp thời gian. Ai cũng có thể đội nón Huế, từ cụ già đến em bé, từ hướng dẫn viên đến du khách nước ngoài.
Nghề làm nón lá nổi tiếng ở Huế đã lâu, nhưng nón bài thơ chỉ xuất hiện từ khoảng năm 1959. Người dân Tây Hồ luôn tự hào với quê hương là nơi sinh ra nón bài thơ xứ Huế. Chiếc nón bài thơ ra đời tại Tây Hồ như một sự tình cờ vào khoảng năm 1959-1960, khi ông Dương Đức Bặt - một nghệ nhân chế nón lá, cũng là một người yêu thơ trong làng, đã đề xuất ý tưởng làm nón bài thơ bằng cách ép những câu thơ vào giữa hai lớp lá, để tôn vinh thêm vẻ đẹp của chiếc nón.
Lúc đó, nón lá ở Huế chủ yếu được tiêu thụ tại các tỉnh miền Nam, vì vậy ông Bặt đã ép hai câu thơ đầu tiên vào chiếc nón: 'Ai ra xứ Huế mộng mơ / Mua về chiếc nón bài thơ làm quà'.
Ban đầu, người dân ở Tây Hồ làm nón bài thơ để tặng cho người thân, không ngờ lại được mọi người yêu thích. Từ đó, những người làm nón ở Tây Hồ bắt đầu sản xuất nón bài thơ hàng loạt để bán trên thị trường. Các câu thơ được ép vào nón cũng đa dạng và phong phú hơn, thường là các câu thơ về Huế.
Quy trình sản xuất
Để làm một chiếc nón bài thơ, cần phải trải qua nhiều công đoạn khác nhau. Quy trình này chủ yếu bao gồm 3 nhóm công việc chính: Chuẩn bị khung và vành nón, xử lý lá nón, khâu và hoàn thiện chiếc nón. Đầu tiên là việc khâu khung và vành nón. Đây là công đoạn đòi hỏi kỹ thuật cao và cẩn thận. Khung nón được làm từ 12 thanh gỗ mảnh ghép lại, chúng có độ cong nhẹ và đều nhau ở phía dưới. Tùy thuộc vào yêu cầu, người thợ sẽ lựa chọn loại khung phù hợp. Tuy nhiên, phần quan trọng nhất vẫn là việc làm vành nón. Vành nón được làm từ thân cây lồ ô, hình dáng và độ cong của vành quyết định nét đẹp của chiếc nón. Có người đã nói: 'Nón Huế nhẹ nhàng, mỏng manh, chất liệu vành làm từ cây lồ ô. Bộ vành này quyết định chủ yếu dáng vẻ chiếc nón. Nó được đánh giá là rất nhanh, rất tròn và rất tròn, mặc dù không có sự chệch nhẹ ở vị trí đôi mắt của cây'.
Vùng sơn cước của Thừa Thiên Huế dường như là kho thiên nhiên vô tận để khai thác lá nón. Sau khi thợ sơn tràng đưa lá về, lá được tuyển sơ để chuyển sang sấy. Lá nón đã sấy được yêu cầu phải đạt được các tiêu chuẩn nhất định, chẳng hạn như sự chín đều của lá, khô một cách vừa phải, vẫn giữ được màu xanh nhạt, không hoàn toàn chuyển sang màu vàng trắng.
Đây là một công việc vất vả và rất quan trọng, quyết định đến chất lượng của chiếc nón. Sau khi sấy khô, người thợ sẽ đưa lá nón ra phơi sương để giữ độ ẩm, sau đó ủi và lựa chọn lá. Họ có kỹ năng tuyển chọn lá đực, lá cái, phần trên và dưới lá, cắt và gấp sống lá. Hai mươi chiếc lá đực đầu tiên được xếp ở phần trong của nón. Tiếp theo là việc ép hoa văn và bài thơ trên toàn bề mặt của chiếc nón. Lá cái được sắp xếp ở phần ngoài cùng. Trong quá trình này, các động tác phải nhẹ nhàng, khéo léo, chèn và ép chặt, giữ cho mặt lá phẳng không bị lồi lõm.
Việc khâu (chằm) nón là giai đoạn quan trọng quyết định đến hình dáng và đẹp của chiếc nón. Người thợ sẽ thực hiện khâu từ trên xuống vành nón, mỗi 1 cm khoảng 3 mũi kim cắm. Vành cuối cùng được khâu bằng chỉ màu trắng, mỗi 2 mũi kim cách nhau 2 cm.
Đường chằm phải mềm mại, thanh nhã và dịu dàng. Bàn tay khéo léo của những nghệ nhân làng nghề nón đã thể hiện điều đó thông qua tài năng và sự khổ luyện của họ, đôi khi phải làm việc từ đêm đến sáng, miệt mài, bền bỉ, không biết mệt mỏi. Sau khi khâu xong chiếc nón, người thợ chỉ còn lại công việc đánh bóng và chải dầu. Lớp dầu nhựa thông pha cồn giúp chiếc nón sáng bóng, đẹp mắt và chống thấm nước. Từ đây, chiếc nón bắt đầu hành trình của mình đến với người tiêu dùng gần xa. Chiếc nón mang tên 'bài thơ' vì những hoa văn được ghép vào giữa nón, mỗi khi nón lá nghiêng dưới ánh nắng nhẹ, những công trình kiến trúc như chùa Thiên Mụ, cầu Tràng Tiền, dòng sông Hương cùng những câu thơ bất chợt hiện ra, gợi lại bao cảm xúc trong lòng người nhìn.
Hình ảnh trong văn học
“ |
Đó là chiếc nón nên thơ thanh lịch. Một món trang sức nhuần nhụy của cô gái Huế, nhẹ nhàng trên đầu, được chằm bằng những vành tre cật vót chải chuốt nhỏ như tăm. Những tấm lá trắng muốt được là phẳng, sắp xếp đều đặn, được khâu kín đáo và tỉ mỉ vào thân nón bằng những sợi cước trong suốt. Khi đội thắt thêm quai nón bằng dải lụa mỏng, khi thì màu tím ấp ủ, khi thì màu xanh ánh trăng hay màu biếc của liễu non, khi lại màu vàng mỡ gà, khi lại màu hồng ráng chiều. Cũng có người thích quai nón bằng dải lụa mỏng trắng bạch, hay dải gấm, dải nhung đen tuyền làm nổi bật làn da người đội nón. |
” |
— Thanh Tịnh - Trần Việt Ngữ |