(Mytour) Việc để tang phản ánh một nền văn minh lâu đời với những quy tắc và sự phân biệt rõ ràng về các mối quan hệ, do đó, việc xác định thời gian kết thúc tang lễ là rất quan trọng trong văn hóa Việt Nam.
Trước khi tìm hiểu thời gian kết thúc tang lễ, chúng ta cần hiểu rõ các khái niệm như Phát Tang, Để Tang và Xả Tang, cũng như cách thể hiện lòng biết ơn và sự tiếc thương đối với người đã mất sao cho phù hợp.
Định nghĩa tổng quát:
- Phát Tang: là thời điểm khi tất cả người thân, bạn bè và gia đình thể hiện sự tiếc thương đối với người đã qua đời.
- Để Tang: là thời gian mà người thân thực hiện nghĩa vụ và trách nhiệm của sự tiếc thương và báo hiếu, thể hiện lòng biết ơn trong một khoảng thời gian nhất định.
- Xả Tang: là thời điểm khi hoàn tất mọi nghĩa vụ và trách nhiệm liên quan đến việc để tang cho người đã mất.

Thời điểm nào thì việc để tang được xem là kết thúc?
Thời gian để tang phụ thuộc vào mức độ quan hệ gần hay xa với người đã mất. Trong văn hóa Việt Nam, có hai loại tang lễ: đại tang và tiểu tang. Tiểu tang có 4 bậc, còn đại tang chỉ có 1 bậc, tổng cộng có 5 bậc gọi là ngũ phục.
1. Đại tang:
Thời gian để tang kéo dài 3 năm (thực tế là 27 tháng)
- Để tang cho tứ thân phụ mẫu: Con cái để tang cha mẹ ruột và cha mẹ nuôi, nàng dâu để tang cha mẹ chồng, cháu đích tôn thay cha khi cha mất để tang ông bà, và chắt thừa trọng thay cha và ông khi cha và ông đều qua đời để tang cụ ông cụ bà.
- Vợ để tang chồng
Tham khảo: Các mức tang phục là gì?
Tham khảo: Các mức tang phục là gì?
2. Tiểu tang:
Thời gian tiểu tang được tính từng tháng, tối đa là một năm, với từng loại có tên và thời gian khác nhau tùy thuộc vào mức độ thân thiết.
- Cơ niên: 1 năm
+ Cha mẹ để tang con trai, con dâu trưởng và con gái chưa lập gia đình
+ Chồng để tang vợ
+ Con rể để tang cha mẹ vợ
+ Anh chị em chưa lập gia đình, bao gồm cả anh chị em cùng cha khác mẹ, để tang cho nhau
+ Em để tang chị dâu trưởng
+ Cháu trai và cháu gái chưa lập gia đình để tang ông bà nội
+ Cháu để tang chú bác ruột và cô ruột chưa lập gia đình
+ Cháu dâu để tang ông bà nhà chồng.
+ Chồng để tang vợ
+ Con rể để tang cha mẹ vợ
+ Anh chị em chưa lập gia đình, bao gồm cả anh chị em cùng cha khác mẹ, để tang cho nhau
+ Em để tang chị dâu trưởng
+ Cháu trai và cháu gái chưa lập gia đình để tang ông bà nội
+ Cháu để tang chú bác ruột và cô ruột chưa lập gia đình
+ Cháu dâu để tang ông bà nhà chồng.
- Đại công: 9 tháng
+ Cha mẹ để tang con gái đã lập gia đình và con dâu thứ
+ Chị em ruột đã lập gia đình để tang cho nhau
+ Anh em con chú con bác ruột để tang cho nhau
+ Chị em con chú con bác ruột chưa lập gia đình để tang cho nhau.
+ Chị em ruột đã lập gia đình để tang cho nhau
+ Anh em con chú con bác ruột để tang cho nhau
+ Chị em con chú con bác ruột chưa lập gia đình để tang cho nhau.
- Tiểu công: 5 tháng
+ Anh chị em cùng mẹ khác cha để tang cho nhau
+ Chị em con chú con bác ruột đã lập gia đình để tang cho nhau
+ Con cái để tang dì ghẻ
+ Cháu để tang ông chú, bà bác, và bà thím
+ Cháu để tang bà cô chưa lập gia đình, chú họ, bác họ, thím họ, cô họ chưa lập gia đình, ông bà ngoại, cậu, và dì ruột
+ Chắt để tang cụ ông cụ bà bên nội.
+ Chị em con chú con bác ruột đã lập gia đình để tang cho nhau
+ Con cái để tang dì ghẻ
+ Cháu để tang ông chú, bà bác, và bà thím
+ Cháu để tang bà cô chưa lập gia đình, chú họ, bác họ, thím họ, cô họ chưa lập gia đình, ông bà ngoại, cậu, và dì ruột
+ Chắt để tang cụ ông cụ bà bên nội.

- Ti ma: 3 tháng
+ Cha mẹ để tang con rể
+ Con cô con cậu và đôi con dì để tang cho nhau
+ Cháu để tang ông chú họ, ông bác họ, bà cô họ chưa lập gia đình, bà cô đã lập gia đình, và cụ cô chưa lập gia đình
+ Chắt để tang cụ chú cụ bác; và chút để tang kỵ ông kỵ bà bên nội.
+ Con cô con cậu và đôi con dì để tang cho nhau
+ Cháu để tang ông chú họ, ông bác họ, bà cô họ chưa lập gia đình, bà cô đã lập gia đình, và cụ cô chưa lập gia đình
+ Chắt để tang cụ chú cụ bác; và chút để tang kỵ ông kỵ bà bên nội.
Cùng với đó, còn có:
- Những người con và cháu đã từng quay lưng với cha mẹ, ông bà, họ hàng, nhưng giờ đây khi người đã mất, họ bắt đầu cảm thấy xót xa, ân hận và ăn năn.
- Những người vợ, chồng đã từng bội bạc nay cảm thấy hối tiếc và ăn năn vì sự ra đi của người kia.
- Những người đã có thái độ không tốt trong họ hàng và bạn bè… Giờ đây, họ cũng bắt đầu cảm thấy ân hận về cách cư xử không đẹp đối với người đã qua đời.
Như vậy, quan niệm trước đây rất coi trọng năm đối với nữ giới, vì thời gian để tang của vợ là 27 tháng (đại tang), trong khi chồng chỉ để tang vợ trong một năm. Con gái đã được gả chồng thuộc về nhà chồng, nên thời gian để tang của phụ nữ đã lập gia đình sẽ ngắn hơn so với khi còn độc thân.
Có thể xả tang cho cha mẹ sau 49 ngày không?
Tục lệ về đại tang và tiểu tang, cùng thời gian mãn tang, đều có nguồn gốc từ văn hóa Nho giáo của người Trung Hoa. Do ảnh hưởng của việc xâm chiếm và cai trị Việt Nam suốt một ngàn năm, phong tục và lễ nghi của chúng ta đã bị ảnh hưởng sâu sắc. Thêm vào đó, trong thời kỳ Tam giáo đồng nguyên: Nho, Phật, và Lão, cả ba nguồn văn hóa này đã hòa quyện với nhau một cách chặt chẽ.
Theo quan niệm Nho giáo, “Thiên kinh vạn quyển hiếu nghĩa vi tiên”, nghĩa là hiếu thảo là ưu tiên hàng đầu. Do đó, việc để tang nhằm thể hiện lòng hiếu thảo của những người còn sống đối với người đã khuất. Người Việt Nam đã áp dụng phong tục này vì thấy phù hợp, và nó vẫn được duy trì đến ngày nay.
Phật giáo không quy định về phục sức tang chế. Cách bạn đối xử với người thân như ông bà, cha mẹ khi còn sống là cách bạn nên hành xử khi họ đã mất. Vì vậy, việc để tang là một biểu hiện hình thức để thể hiện nỗi nhớ thương đối với người đã qua đời.

Ngày xưa, việc để tang kéo dài rất lâu, phải qua hai năm cúng đại tường và một năm cúng tiểu tường. Do đó, các con cháu phải để tang cha mẹ ông bà đúng hai năm mới được kết thúc. Tuy nhiên, sau này, phong tục này đã được giản lược vì sự kéo dài tang lễ gây nhiều bất tiện, ảnh hưởng đến việc cưới hỏi và công việc, do đó, việc cư tang ngày nay đã không còn giữ đúng như trước.
Hiện nay, sau 49 ngày, con cháu có thể tổ chức lễ xả tang. Trong những trường hợp đặc biệt, như cha mẹ mất ở Việt Nam trong khi con cái đang ở nước ngoài không thể về dự tang lễ, thì Phật tử và gia đình có thể xin chư Tăng Ni làm lễ thọ tang tại chùa. Điều này không bị coi là bất hiếu và là sự chấp nhận hoàn cảnh khó khăn.
Cha mẹ và ông bà là những người thân thiết nhất trong cuộc đời, việc về để tang là đúng nghĩa làm con, nhưng do hoàn cảnh bắt buộc, việc này là điều không thể tránh khỏi.
Đôi khi, khi cha mẹ ông bà mới qua đời, con cháu lại tranh cãi, đấu đá nhau hoặc tổ chức cúng tế quá mức. Những hành động này không giúp người đã khuất được siêu thoát và việc cư tang sẽ không còn ý nghĩa. Vì thế, tục lệ cư tang có thể thay đổi theo thời đại và yêu cầu của tang quyến, miễn sao không vi phạm đạo lý. Thời gian cư tang dài hay ngắn không quan trọng, điều quan trọng là lòng hiếu thảo của con người, còn các nghi lễ chỉ là hình thức thể hiện lòng thành.