Kỷ Jura 201.3–145 triệu năm trước đây TiềnЄ
Є
O
S
D
C
P
T
J
K
Pg
N
| |
Nồng độ O 2 trung bình trong khí quyển giai đoạn này |
Khoảng 26 Vol % (130 % so với giá trị hiện tại) |
Nồng độ CO 2 trung bình trong khí quyển giai đoạn này |
Khoảng 1950 ppm (7 lần giá trị tiền công nghiệp) |
Nhiệt độ bề mặt nước biển trong giai đoạn này | Khoảng 16.5 °C (3 °C trên mức hiện đại) |
Thời Kỳ Jura kéo dài từ khoảng 200 triệu năm trước, bắt đầu từ khi kết thúc Kỷ Tam Điệp và kéo dài đến khoảng 146 triệu năm trước, khi Kỷ Phấn Trắng bắt đầu (Creta). Mặc dù các tầng đá đã xác định rõ ràng sự bắt đầu và kết thúc của kỷ này, nhưng niên đại chính xác vẫn còn chưa chắc chắn trong khoảng 5 - 10 triệu năm. Kỷ Jura nằm giữa Đại Trung Sinh, còn gọi là kỷ nguyên Khủng Long. Sự bắt đầu của kỷ này được đánh dấu bởi sự kiện tuyệt chủng lớn kỷ Trias-Jura.
Tên gọi Kỷ Jura do Alexandre Brogniart đặt cho các địa hình đá vôi có nguồn gốc biển xuất hiện ở dãy núi Jura, khu vực nằm giữa Đức, Pháp và Thụy Sĩ.
Các phân kỷ
Kỷ Jura được chia thành các phân kỷ Tiền, Trung và Hậu, còn gọi là Lias, Dogger và Malm. Các thuật ngữ tương ứng cho các tầng đá là Hạ, Trung và Thượng Jura. Các tầng động vật từ trẻ đến cổ nhất là:
Hệ/ Kỷ |
Thống/ Thế |
Tầng/ Kỳ |
Niên đại (Ma) | |
---|---|---|---|---|
Phấn Trắng | Hạ/Sớm | Berrias | trẻ/muộn hơn | |
Jura | Thượng /Muộn |
Tithon | ~145.0 | 152.1 |
Kimmeridge | 152.1 | 157.3 | ||
Oxford | 157.3 | 163.5 | ||
Trung/Giữa | Callove | 163.5 | 166.1 | |
Bathon | 166.1 | 168.3 | ||
Bajocy | 168.3 | 170.3 | ||
Aalen | 170.3 | 174.1 | ||
Hạ/Sớm | Toarc | 174.1 | 182.7 | |
Pliensbach | 182.7 | 190.8 | ||
Sinemur | 190.8 | 199.3 | ||
Hettange | 199.3 | 201.3 | ||
Trias | Thượng /Muộn |
Rhaetia | cổ/sớm hơn | |
Phân chia Kỷ Jura theo ICS năm 2020. |
Cổ địa lý
Trong giai đoạn đầu của Kỷ Jura, siêu lục địa Pangea đã bị phân tách thành Bắc Mỹ, Eurasia và Gondwana, với Đại Tây Dương còn khá hẹp. Đến giai đoạn cuối của Kỷ Jura, lục địa Gondwana bắt đầu tách rời và biển Tethys đã khép lại, tạo ra lòng chảo Neotethys. Khí hậu lúc này ấm áp, không có dấu hiệu của sự đóng băng. Trong Kỷ Trias, dường như không có các vùng đất gần hai cực hoặc các chỏm băng.
Hồ sơ địa chất của Kỷ Jura rất phong phú ở Tây Âu, nơi có các chuỗi trầm tích đại dương rộng lớn dọc theo bờ biển, bao gồm bờ biển Jurassic nổi tiếng được công nhận là di sản thế giới. Các tầng đá của kỷ này còn nổi bật với các lagerstätte như Holzmaden và Solnhofen. Ngược lại, hồ sơ địa chất ở Bắc Mỹ trong Kỷ Jura khá nghèo nàn so với các thời kỳ khác trong Đại Trung Sinh, với chỉ một số ít trầm tích xuất hiện trên bề mặt (xem bản đồ Lưu trữ 2007-07-15 tại Wayback Machine). Mặc dù biển Sundance khá nông đã để lại một số trầm tích ở miền bắc Hoa Kỳ và Canada vào cuối Kỷ Jura, phần lớn trầm tích giai đoạn này chủ yếu là lục địa, như trầm tích phù sa của kiến tạo núi Morrison.
Những khối đá batholith lớn đầu tiên xuất hiện ở miền bắc Cordillera vào giữa Kỷ Jura, dẫn đến sự hình thành núi ở Nevada (Monroe và Wicander 1997, tr. 607). Các phần lộ ra quan trọng của Kỷ Jura cũng được tìm thấy ở Nga, Ấn Độ, Nam Mỹ, Nhật Bản, Australasia và Vương quốc Anh hiện nay.
Tại châu Phi, các lớp địa tầng kỷ Jura sớm phân bố tương tự như lớp địa tầng kỷ Jura muộn, với các điểm lộ ra phổ biến hơn ở phía nam và ít phát hiện hóa thạch hơn ở phía bắc, chủ yếu là dấu vết. Tương tự như những nơi khác trong kỷ Jura, các loài khủng long phổ biến nhất như Sauropod và Ornithopod đã phát triển mạnh mẽ ở châu Phi. Địa tầng Trung Jura không có đại diện rõ ràng và chưa được nghiên cứu sâu ở châu Phi. Địa tầng Jura muộn chỉ có một số đại diện từ hệ động vật Tendeguru ở Tanzania. Sự sống ở Jura muộn của Tendeguru rất giống với thành hệ Morrison ở Tây Bắc Mỹ.
Động vật sống dưới nước
Trong kỷ Jura, các dạng sinh vật 'cao cấp' nhất trong đại dương bao gồm cá và bò sát biển. Nhóm bò sát biển có thằn lằn cá (Ichthyosauria), thằn lằn cổ rắn chân chèo (Plesiosauria) và cá sấu biển (Crocodilia) thuộc các họ Teleosauridae và Metriorhynchidae.
Trong thế giới động vật không xương sống, đã xuất hiện một số nhóm mới, chẳng hạn như:
- Sinh vật phù du thuộc ngành Foraminifera và nhóm Calpionelid
- Động vật hai mảnh vỏ thuộc lớp Bivalvia
- Động vật thân mềm thuộc nhóm Belemnoidea và
- Động vật thuộc ngành Brachiopoda với các nhóm Terebratulid và Rinchonelid.
Các con mực thuộc phân lớp Ammonoidea (lớp Cephalopoda có vỏ) rất phổ biến và đa dạng, tạo thành 62 sinh đới.
Động vật trên cạn
Trên cạn, các loài bò sát lớn thuộc nhóm Archosauria vẫn giữ vai trò thống trị. Những khủng long ăn cỏ thuộc cận bộ Sauropoda sống trên thảo nguyên, ăn dương xỉ và các loài tuế giống cây dừa, cùng nhóm Bennettitales. Chúng bị săn lùng bởi các khủng long lớn thuộc cận bộ Theropoda như Ceratosaurs, Megalosaurs và Allosaurs. Tất cả những khủng long này thuộc nhóm 'hông thằn lằn' hay bộ Saurischia.
Vào cuối kỷ Jura, những loài chim đầu tiên đã tiến hóa từ các khủng long nhỏ thuộc cận bộ Coelurosauria. Các khủng long thuộc bộ Ornithischia ít phổ biến hơn so với bộ Saurischia, mặc dù một số nhóm như chi Stegosaur và phân bộ Ornithopoda nhỏ đóng vai trò quan trọng như các động vật ăn cỏ có kích thước từ nhỏ đến lớn (nhưng không bằng Sauropoda). Trong không gian, thằn lằn bay (Pterosauria) rất phổ biến, thực hiện nhiều vai trò sinh thái như chim hiện đại.
Thực vật
Các điều kiện khô hạn đặc trưng trong phần lớn kỷ Trias đã dần được cải thiện trong kỷ Jura, đặc biệt ở các vùng cao; khí hậu ấm áp và ẩm ướt tạo điều kiện cho các cánh rừng nhiệt đới tươi tốt phát triển, phủ kín phần lớn diện tích đất (Haines, 2000). Thực vật có hoa chưa xuất hiện, và các thực vật quả nón vẫn chiếm ưu thế, như trong kỷ Trias. Chúng là nhóm thực vật đa dạng nhất và tạo thành phần chính của các loài cây lớn thân gỗ. Các họ ngành Thông phát triển mạnh mẽ trong kỷ Jura bao gồm Araucariaceae, Cephalotaxaceae, Pinaceae, Podocarpaceae, Taxaceae và Taxodiaceae (Behrensmeyer & cộng sự, 1992, tr. 349). Họ thực vật quả nón Cheirolepidiaceae, nay đã tuyệt chủng, từng chiếm ưu thế ở các vùng thấp, cùng với các loài cây bụi thuộc bộ Bennettitales (Behrensmeyer & cộng sự, 1992, tr. 352). Các loài tuế (Cycadophyta) rất phổ biến, cùng với bạch quả và dương xỉ thân gỗ trong các cánh rừng. Các loài dương xỉ nhỏ có thể là nhóm thống trị ở tầng thấp. Dương xỉ có hạt nhóm Caytoniacea là nhóm thực vật quan trọng khác trong thời kỳ này, có thể đạt kích thước của cây bụi hoặc cây thân gỗ nhỏ (Behrensmeyer & cộng sự, 1992, tr. 353). Các loài thực vật giống bạch quả phổ biến ở các vĩ độ từ trung đến cao ở nửa phía bắc. Tại Bán cầu nam, các loài kim giao phát triển đặc biệt (Haines, 2000), trong khi bạch quả và Czekanowskiales khá hiếm (Behrensmeyer & cộng sự, 1992, tr. 352).
Văn hóa
- Cuốn tiểu thuyết và bộ phim Công viên kỷ Jura đề cập đến kỷ Jura, nhưng nhiều sinh vật trong tiểu thuyết và phim thực ra thuộc kỷ Phấn trắng.
- Có một ban nhạc hip hop tên là Jurassic 5.
Bằng tiếng Anh:
- Behrensmeyer, Anna K, Damuth, JD, DiMichele, WA, Potts, R Sues, HD & Wing, SL (biên tập) (1992), Terrestrial Ecosystems through Time: the Evolutionary Paleoecology of Terrestrial Plants and Animals, Đại học Chicago, Chicago và London, ISBN 0-226-04154-9 (bìa vải), ISBN 0-226-04155-7 (bìa giấy)
- Haines, Tim (2000) Walking with Dinosaurs: A Natural History, New York: Dorling Kindersley Publishing, Inc., tr. 65. ISBN 0-563-38449-2
- Kazlev, M. Alan (2002) Trang web Paleos Lưu trữ ngày 5 tháng 1 năm 2006 tại Wayback Machine. Truy cập ngày 8 tháng 1 năm 2006.
- Monroe, James S. và Reed Wicander. (1997) The Changing Earth: Exploring Geology and Evolution, ấn bản lần thứ hai, Belmont: West Publishing Company, 1997. ISBN 0-314-09577-2
- Ogg, Jim; tháng 6 năm 2004, Overview of Global Boundary Stratotype Sections and Points (GSSP's). Truy cập ngày 30 tháng 4 năm 2006.