Một nghiên cứu đã chỉ ra rằng loài đồi mồi dứa duy trì thói quen kéo dài 3.000 năm.
Khó có thể so sánh được thói quen dậy sớm tập thể dục của bạn với loài đồi mồi dứa Địa Trung Hải. Trong một nghiên cứu được công bố vào năm ngoái, các nhà khoa học đã phát hiện rằng các con rùa xanh tiếp tục quay trở lại những khu vực cỏ biển như cách chúng đã làm từ 3.000 năm trước.
Theo các nhà nghiên cứu, kết quả của cuộc thử nghiệm này nhấn mạnh sự quan trọng của việc bảo vệ các bãi biển không được bảo tồn ở miền Bắc Phi, đồng thời tôn vinh lịch sử lâu đời của loài rùa biển như một loài động vật hướng dẫn cho các nỗ lực bảo tồn.
“Đây thực sự là một điều thú vị”, Cyler Conrad, một nhà khoa học môi trường tại Phòng thí nghiệm Quốc gia Tây Bắc Thái Bình Dương, người không tham gia vào nghiên cứu, nhận xét. Theo ông, rất ít nghiên cứu có thể thành công trong việc tìm ra mối liên hệ cổ xưa như vậy giữa sinh vật và môi trường sống của chúng.
Một con rùa biển ngoài khơi Địa Trung Hải.
Rùa biển là loài động vật ưa thích có thói quen đặc biệt: đồi mồi dứa, hay còn gọi là rùa biển xanh (danh pháp: Chelonia mydas) luôn đẻ trứng tại nơi chúng được sinh ra. Hơn nữa, chúng cũng có thói quen quay trở lại những địa điểm cụ thể, chẳng hạn như một khu vực cỏ biển có diện tích nhỏ không quá 50 mét vuông. Chúng đến đây chỉ để tìm kiếm món ăn yêu thích của mình.
'Những mảng cỏ nhỏ nhắn thực sự là điều mà rùa biển đang tìm kiếm,' nhà bảo tồn biển Annette Broderick nhận định. 'Nếu chúng tìm thấy một nơi hợp với mình, chúng sẽ quay trở lại đó.'
Trong nghiên cứu mới, Broderick và các nhà khoa học đã phát hiện thấy thói quen này tồn tại suốt cả cuộc đời của một con rùa, và bằng chứng là những thùng rác.
Rùa biển đã trở thành món đặc sản của miền Địa Trung Hải hàng ngàn năm qua, và các bãi rác cổ chứa xương và mai rùa từ những bữa ăn xưa. Hợp tác với Hội Bảo vệ Rùa Bắc Cyprus, các nhà nghiên cứu đã thu thập xương rùa từ ba địa điểm thời đại đồ đồng và đồ sắt, có tuổi từ 2700 đến 4700 năm trước. Họ xác định thành công loài rùa từ protein trong các mẫu xương thu được.
Các nghiên cứu trước đây đã chỉ ra rằng cỏ biển từng vùng sẽ mang những dấu hiệu hóa học đặc trưng. Nhờ đó, các nhà khoa học có thể xác định rùa đã tiêu thụ cỏ của vùng biển nào.
Các nhà khoa học đã lấy mẫu xương để đo lường thành phần hóa học, điều chỉnh theo sự thay đổi của bầu khí quyển trong vài nghìn năm qua. Họ đã xây dựng mô hình mô phỏng quá trình sinh trưởng của cỏ và xác nhận chúng khớp với các mẫu xương rùa thuộc thời kỳ nào.
Kết quả cho thấy: đồi mồi dứa thời đồ sắt cũng ăn cỏ giống như rùa hiện đại; hậu duệ của những con rùa xưa vẫn 'nhớ' nơi ăn quen và trở lại thường xuyên. Báo cáo nghiên cứu đã được đăng trên tạp chí PNAS vào năm ngoái.
'Tôi rất ngạc nhiên', Willemien de Kock, tác giả chính của nghiên cứu và là một nhà nghiên cứu hậu tiến sĩ tại Viện Khảo cổ học Groningen, chia sẻ. 'Chúng tôi có thể nhìn xa vào quá khứ và nhận thấy hành vi tương tự trên các cá thể rùa'. Nghiên cứu cho thấy động vật cũng có truyền thống, cô nói. 'Câu hỏi đặt ra là, điều gì sẽ xảy ra nếu những khu vực này biến mất?'
Hầu hết các nỗ lực bảo tồn đều tập trung vào nơi rùa biển sinh sản, các tác giả của nghiên cứu lưu ý. 'Chúng ta thấy những chú rùa con và chúng ta nói, được rồi, chúng ta cần phải bảo vệ chúng', Alberto Taurozzi, đồng tác giả của nghiên cứu và là nhà cổ sinh vật học tại Đại học Copenhagen, nhận định. Nhưng rùa chỉ sinh sản một lần mỗi vài năm. Chúng dành phần lớn cuộc đời ở những thảm thực vật dưới nước, những địa điểm thường bị bỏ quên quanh bờ biển Bắc Phi.
Cô de Koch nhấn mạnh, rằng mối quan hệ giữa rùa và cỏ là đường hai chiều; rùa gặm cỏ, mà cỏ cần rùa để có thể xanh tốt lâu dài.
Cô nói thêm, biến đổi khí hậu đang đe dọa tương lai của những thảm cỏ này, bởi lẽ chúng không kịp phục hồi sau những đợt nắng nóng kỷ lục. Tất cả các khu vực được nghiên cứu đều đang không được bảo vệ bởi các tổ chức có thẩm quyền.
Nếu không được bảo tồn, đồi mồi dứa có thể cần tìm địa điểm kiếm ăn mới. Mất đi những bãi cỏ biển này cũng có thể ảnh hưởng đến một loạt các loài khác, làm quá trình chống biến đổi khí hậu thêm phức tạp.
Theo nhà nghiên cứu Conrad, một nghiên cứu lịch sử, liên ngành như vậy mang ý nghĩa lớn với công tác bảo tồn. Sự kết hợp của hóa học cổ đại và kỹ thuật vệ tinh hiện đại có thể được ứng dụng trong nghiên cứu những loài động vật biển khác như cá và cá voi, ông nói. 'Chúng ta có một số trách nhiệm kể câu chuyện của chúng một cách rõ ràng hơn, đầy đủ hơn cho phần còn lại của thế giới'.
Theo tạp chí Science