Mặc dù toàn bộ lãnh thổ Việt Nam nằm trong vùng nhiệt đới, nhưng thời tiết Việt Nam được phân chia thành 3 vùng khí hậu theo hệ thống phân loại khí hậu Köppen. Phía Bắc, bao gồm Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ, có khí hậu cận nhiệt đới ẩm với hai mùa rõ rệt: mùa hè và mùa đông. Trong khi đó, miền Trung và Nam Trung Bộ có khí hậu nhiệt đới gió mùa, và miền cực Nam Trung Bộ cùng Nam Bộ có đặc điểm cận xích đạo. Vị trí nằm ở rìa Đông Nam của châu Á lục địa, tiếp giáp với Biển Đông, khiến Việt Nam còn chịu ảnh hưởng của gió mùa mậu dịch. Miền Nam có hai mùa chính: mùa mưa và mùa khô. Cần phân biệt rõ giữa khí hậu ôn đới và nhiệt đới; khí hậu ôn đới có bốn mùa (xuân, hạ, thu, đông) còn khí hậu nhiệt đới chỉ có hai mùa (nắng và mưa). Miền Bắc Việt Nam có hai mùa (với mùa xuân và thu ngắn), nên không hoàn toàn thuộc khí hậu ôn đới, trong khi miền Nam có hai mùa chính, hoàn toàn thuộc khí hậu nhiệt đới.
Ảnh hưởng của các hoàn lưu khí quyển
Các hoàn lưu khí quyển ảnh hưởng đến Việt Nam là một phần của hệ thống gió mùa Đông Nam Á, với ba đặc điểm nổi bật:
- Vào mùa hè, Việt Nam chịu ảnh hưởng của gió mùa Nam Á, và vào mùa đông, gió mùa Đông Bắc tác động mạnh mẽ, đặc biệt ở miền Bắc.
- Việt Nam không chỉ chịu ảnh hưởng của các hoàn lưu nhiệt đới, cận nhiệt đới và ôn đới từ Bắc bán cầu, mà còn có sự tác động của các hoàn lưu cận nhiệt đới và nhiệt đới từ Nam bán cầu.
- Vị trí tiếp giáp biển ảnh hưởng sâu sắc đến khí hậu Việt Nam trong suốt cả năm.
Hai vùng áp suất khí quyển chủ yếu ảnh hưởng đến hoàn lưu khí quyển Việt Nam là áp thấp xích đạo và áp cao cận nhiệt đới. Các trung tâm áp suất theo mùa tác động đến Việt Nam bao gồm áp cao lục địa châu Á, vùng áp thấp Aleutia, trung tâm áp thấp lục địa Nam Á và trung tâm áp cao đại dương. Ở Đông Á, frông vùng cực di chuyển về phía nam trong mùa đông, với giới hạn phía nam đạt 8°B vào tháng Giêng và giới hạn phía bắc là 25–27°B vào tháng Bảy. Do Việt Nam nằm giữa hai giới hạn này, khí hậu nước ta chịu ảnh hưởng cả của không khí vùng cực và không khí nhiệt đới từ đới hội tụ nhiệt đới. Hoàn lưu gió mùa tại Việt Nam là sự kết hợp của hai hệ thống gió mùa Nam Á và Đông Bắc Á, tạo ra bốn mùa rõ rệt: mùa đông (tháng 11 - tháng 3) và mùa hè (tháng 5 - tháng 9) là chủ yếu, còn mùa xuân (tháng 4) và mùa thu (tháng 10) là chuyển tiếp.
Các mùa trong năm
Mùa đông kéo dài từ tháng 11 đến tháng 3. Trong mùa này, không khí vùng cực từ Cao nguyên Xibia xâm nhập sâu vào các vĩ độ thấp, khiến Cao nguyên phía đông Tây Tạng thổi gió đông bắc mát lạnh xuống phía nam. Đồng thời, áp suất thấp ở Úc tăng cường tạo ra gió đông bắc lạnh giá. Việt Nam có thể trải qua nhiều đợt rét trong mùa đông, đặc biệt là miền Bắc, với 3-4 đợt rét mỗi tháng, nhiệt độ giảm từ 4 đến 5°C (7 đến 9°F). Thời tiết mùa đông có thể rất lạnh, với những ngày không có mây hoặc mưa phùn kéo dài. Nền nhiệt độ mùa đông ở miền Bắc thấp hơn so với các khu vực cùng vĩ độ khác do ảnh hưởng của địa hình với bốn cánh cung núi như Sông Gâm, Ngân Sơn, Bắc Sơn và Đông Triều, tạo điều kiện cho gió mùa đông mạnh mẽ. Miền Bắc thường trải qua thời tiết lạnh hơn so với miền Nam vì các mặt trận lạnh xâm nhập thường xuyên hơn.
Mùa mưa bắt đầu từ cuối tháng 4 hoặc đầu tháng 5 và kéo dài đến tháng 10. Trong mùa hè, gió Tây Nam chi phối các vùng phía Nam Việt Nam, trong khi gió Đông Nam ảnh hưởng đến phía Bắc. Các khối khí chủ yếu là khối xích đạo và khối nhiệt đới từ hệ thống áp cao Nam bán cầu, cùng với khối nhiệt đới biển từ áp cao cận nhiệt đới Thái Bình Dương. Mùa hè, Việt Nam cũng chịu ảnh hưởng của không khí nhiệt đới từ Vịnh Bengal, khi áp thấp lục địa từ Nam Á di chuyển theo hướng Đông vào Việt Nam và nam Trung Quốc, gây thời tiết khô nóng ở Bắc Trung Bộ và ấm áp trên sườn đông dãy Trường Sơn. Trung bình có 11 cơn bão và áp thấp nhiệt đới trên Biển Đông mỗi mùa hè, trong đó một nửa là xoáy thuận nhiệt đới từ Tây Thái Bình Dương, di chuyển Tây về phía Việt Nam. Việt Nam chịu ảnh hưởng của 6-8 cơn bão hoặc xoáy thuận nhiệt đới mỗi năm.
Mùa Xuân và mùa Thu là các mùa chuyển tiếp, đánh dấu sự chuyển giao giữa mùa đông và mùa hè, và giữa mùa hè và mùa đông tương ứng.
Nói chung, miền Bắc Việt Nam có bốn mùa rõ rệt là đông, xuân, hạ, thu, trong khi miền Nam chỉ có hai mùa chính là mùa khô và mùa mưa.
Nhiệt độ
Nhiệt độ trung bình hàng năm ở Việt Nam, dựa trên dữ liệu từ các trạm khí tượng, dao động từ 12,8 đến 27,7°C (55 đến 82°F) tại Hoàng Liên Sơn. Ở khu vực cao nhất của dãy Hoàng Liên Sơn, nhiệt độ trung bình hàng năm chỉ đạt 8°C (46°F). Nhiệt độ giảm khoảng 0,5°C (1°F) cho mỗi 100 mét (328 feet) tăng thêm về độ cao. Các khu vực miền núi và phía Bắc có nhiệt độ trung bình hàng năm thấp hơn, do ảnh hưởng của độ cao và vĩ độ. Do tác động mạnh mẽ của gió mùa, nhiệt độ trung bình ở Việt Nam thấp hơn so với các nước cùng vĩ độ ở Châu Á.
Trong mùa đông, nhiệt độ trung bình dao động từ 2 đến 26°C (36 đến 79°F), giảm dần từ nam lên bắc hoặc khi leo lên cao. Vào tháng lạnh nhất, nhiệt độ trung bình ở các vùng cao phía Bắc dao động từ 10 đến 16°C (50 đến 61°F), trong khi ở vùng cao phía Nam là 20 đến 24°C (68 đến 75°F). Nói chung, nhiệt độ mùa đông ở nhiều khu vực phía Bắc thường dưới 20°C (68°F). Ngoài việc giảm nhiệt độ vào mùa đông, gió mùa Đông Bắc cũng góp phần làm tăng cảm giác lạnh. Nhiều khu vực núi phía Bắc trải qua điều kiện cận nhiệt đới. Ngược lại, nhiệt độ ở quần đảo Trường Sa không bao giờ xuống dưới 21°C (70°F). Vào mùa hè, nhiệt độ trung bình dao động từ 25 đến 30°C (77 đến 86°F), với nhiệt độ cao nhất thường xảy ra từ tháng 3 đến tháng 5 ở miền Nam và từ tháng 5 đến tháng 7 ở miền Bắc. Ở miền Bắc, mưa phùn dẫn đến nhiệt độ tăng nhẹ từ tháng 2 đến tháng 3, sau đó nhiệt độ tăng từ tháng 4 đến tháng 8. Ở miền Nam, nhiệt độ tăng nhanh hơn nhiều từ tháng 12 đến tháng 2 hoặc tháng 3. Vì vậy, miền Nam thường có nhiệt độ cao nhất vào cuối mùa đông, trong khi miền Bắc đạt nhiệt độ cao nhất vào tháng 7 và tháng 8. Nhiệt độ mùa hè tương đối đồng đều giữa các vùng, với sự khác biệt chủ yếu do độ cao.
Kỷ lục nhiệt độ
Dữ liệu khí hậu của Vietnam | |||||||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Tháng | 1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 | 11 | 12 | Năm |
Cao kỉ lục °C (°F) | 37.4 (99.3) |
38.0 (100.4) |
41.4 (106.5) |
42.8 (109.0) |
44.2 (111.6) |
43.8 (110.8) |
42.2 (108.0) |
40.7 (105.3) |
40.6 (105.1) |
39.5 (103.1) |
38.1 (100.6) |
38.5 (101.3) |
44.2 (111.6) |
Trung bình ngày tối đa °C (°F) | 23.8 (74.8) |
24.8 (76.6) |
27.8 (82.0) |
29.6 (85.3) |
31.1 (88.0) |
31.0 (87.8) |
30.9 (87.6) |
30.7 (87.3) |
29.9 (85.8) |
28.5 (83.3) |
26.5 (79.7) |
24.8 (76.6) |
28.3 (82.9) |
Trung bình ngày °C (°F) | 19.9 (67.8) |
21.0 (69.8) |
22.5 (72.5) |
25.6 (78.1) |
27.1 (80.8) |
27.3 (81.1) |
27.4 (81.3) |
27.1 (80.8) |
26.3 (79.3) |
24.9 (76.8) |
22.9 (73.2) |
20.8 (69.4) |
24.4 (75.9) |
Tối thiểu trung bình ngày °C (°F) | 16.1 (61.0) |
17.2 (63.0) |
17.3 (63.1) |
21.6 (70.9) |
23.2 (73.8) |
23.7 (74.7) |
23.9 (75.0) |
23.5 (74.3) |
22.8 (73.0) |
21.3 (70.3) |
19.3 (66.7) |
16.9 (62.4) |
20.6 (69.1) |
Thấp kỉ lục °C (°F) | −6.1 (21.0) |
−1 (30) |
−3.5 (25.7) |
2.4 (36.3) |
8.3 (46.9) |
10.8 (51.4) |
12.2 (54.0) |
13.8 (56.8) |
2.3 (36.1) |
2.1 (35.8) |
−1 (30) |
−6.4 (20.5) |
−6.4 (20.5) |
Lượng Giáng thủy trung bình mm (inches) | 38 (1.5) |
27 (1.1) |
38 (1.5) |
74 (2.9) |
171 (6.7) |
227 (8.9) |
246 (9.7) |
255 (10.0) |
265 (10.4) |
234 (9.2) |
168 (6.6) |
77 (3.0) |
1.821 (71.7) |
Số ngày giáng thủy trung bình | 7.1 | 6.9 | 8.1 | 10.4 | 15.4 | 17.7 | 19.1 | 20.6 | 18.3 | 15.2 | 10.2 | 7.3 | 156.4 |
Nguồn: Climate Research Unit |
Nhiệt độ cao nhất từng được ghi nhận ở Việt Nam là 44,2°C, đo được tại huyện Tương Dương, tỉnh Nghệ An vào ngày 7 tháng 5 năm 2023.
Nhiệt độ thấp nhất ghi nhận ở Việt Nam là −6,1°C (21,0°F) tại Sa Pa vào ngày 4 tháng 1 năm 1974. Mức thấp kỷ lục −6,0°C (21,2°F) cũng được ghi nhận tại Hoàng Liên vào ngày 1 và 6 tháng 1 năm 1974. Nhiệt độ mặt đất thấp nhất là −6,4°C (20,5°F) tại Sa Pa vào ngày 31 tháng 12 năm 1975, trong khi nhiệt độ mặt đất cao nhất là 74,7°C (166,5°F) tại Buôn Ma Thuột vào ngày 23 tháng 5 năm 1982. Nhiệt độ mặt đất thấp kỷ lục thường thấp hơn từ 1 đến 2°C (2 đến 4°F) so với nhiệt độ không khí thấp nhất, nhưng nhiệt độ mặt đất cao kỷ lục thường cao hơn từ 30°C (54°F) so với nhiệt độ không khí.
Áp suất không khí cao nhất được ghi nhận ở Việt Nam là 1.035,9 hPa (30,59 inHg) tại trạm khí tượng Láng vào ngày 18 tháng 11 năm 1996. Ngược lại, áp suất không khí thấp nhất là 827,0 hPa (24,42 inHg) tại Sa Pa vào ngày 24 tháng 7 năm 1971.
Sức gió mạnh nhất ghi nhận ở Việt Nam là 59 m/s (190 ft/s) tại Quy Nhơn vào tháng 9 năm 1972. Mặc dù vậy, vận tốc gió trên 40 m/s (130 ft/s) cũng đã được ghi nhận ở đồng bằng Bắc Bộ (đồng bằng sông Hồng) và vùng ven biển tỉnh Quảng Ninh.
Lượng mưa
Lượng mưa trung bình hàng năm trên toàn quốc dao động từ 700 đến 5.000 mm (28 đến 197 in), trong khi hầu hết các khu vực ở Việt Nam nhận từ 1.400 đến 2.400 mm (55 đến 94 in). Phần lớn lượng mưa tập trung vào mùa mưa, chiếm từ 80% đến 90% tổng lượng mưa hàng năm. Về cơ bản, các khu vực phía Bắc của đất nước có lượng mưa nhiều hơn các khu vực phía Nam. Các đảo ở phía Bắc thường có lượng mưa ít hơn so với các khu vực đất liền lân cận, ngược lại, các đảo ở phía Nam như Phú Quốc lại nhận nhiều mưa hơn các khu vực đất liền. Số ngày mưa trung bình hàng năm dao động từ 60 đến 200 ngày, với phần lớn các ngày có lượng mưa dưới 5 mm (0,20 in). Số ngày mưa trong tháng thường phản ánh lượng mưa trung bình hàng tháng, tuy nhiên ở Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ, mùa đông thường có mưa phùn, dẫn đến số ngày mưa cao hơn. Ví dụ, tỉnh Yên Bái có số ngày mưa vào mùa khô nhiều hơn so với mùa mưa chính do ảnh hưởng của mưa phùn. Mưa phùn là đặc trưng của mùa đông ở Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ. Số ngày có dông xuất hiện từ 20 đến 80 ngày mỗi năm, phổ biến hơn ở phía Nam và vùng núi so với đồng bằng ven biển. Giông có thể xảy ra quanh năm nhưng phổ biến nhất vào mùa mưa. Các đỉnh núi cao ở phía Bắc như Sa Pa, Tam Đảo, và Hoàng Liên Sơn đôi khi có tuyết rơi.
Thời điểm bắt đầu mùa mưa, được xác định khi lượng mưa trung bình hàng tháng vượt quá 100 mm (3,9 in), khác nhau tùy theo khu vực: Ở Tây Bắc và Đông Bắc, mùa mưa thường bắt đầu từ tháng 4 đến tháng 5, đạt đỉnh vào tháng 7 đến tháng 8 và kết thúc vào tháng 9 và tháng 10. Ở đồng bằng sông Hồng (đồng bằng Bắc Bộ), mùa mưa bắt đầu từ tháng 4 đến tháng 5, đạt đỉnh vào tháng 7 đến tháng 8 và kết thúc vào tháng 10. Ở Bắc Trung Bộ, mùa mưa thường bắt đầu từ tháng 5 đến tháng 8 (ở phần phía bắc đèo Ngang mùa mưa bắt đầu từ tháng 5 đến tháng 6, trong khi phần phía Nam đèo Ngang mùa mưa đến muộn hơn vào tháng 8, đạt cực đại vào tháng 10 và tháng 11 trước khi kết thúc vào tháng 11 và tháng 12). Đối với vùng duyên hải Nam Trung Bộ, mùa mưa bắt đầu vào tháng 8 và tháng 9, đạt đỉnh vào tháng 10 và tháng 11 và kết thúc vào tháng 12. Ở Tây Nguyên, mùa mưa bắt đầu vào tháng 4 và tháng 5, đạt đỉnh vào tháng 8 trước khi kết thúc vào tháng 10 và tháng 11. Cuối cùng, miền Nam có mùa mưa bắt đầu từ tháng 5, đạt đỉnh vào tháng 9 và kết thúc vào tháng 11.
Các miền khí hậu của Việt Nam
Việt Nam chia thành bốn miền khí hậu chính, gồm miền khí hậu phía Bắc, miền khí hậu phía Nam, miền khí hậu Trường Sơn, và miền khí hậu Biển Đông.
Miền khí hậu phía Bắc
Bao gồm khu vực phía Bắc (bờ trái) của sông Lam, miền này có khí hậu cận nhiệt đới ẩm. Tuy nhiên, đặc điểm của khí hậu ở đây là sự không ổn định về thời điểm bắt đầu và kết thúc các mùa cũng như về nhiệt độ.
- Vùng Đông Bắc bao gồm châu thổ Bắc Bộ và các khu vực đồi núi bờ trái sông Hồng. Địa hình phổ biến ở đây là các đồi núi thấp dưới 1000 m. Các dãy núi hình cánh cung như Đông Triều, Bắc Sơn, Ngân Sơn, và Sông Gâm không chỉ không ngăn cản mà còn dẫn gió mùa Đông Bắc và gió Bắc thường vào mùa đông. Vùng này tiếp giáp với vịnh Bắc Bộ ở phía Đông và được bảo vệ bởi dãy Hoàng Liên Sơn ở phía Tây, chịu ảnh hưởng của khí hậu gió mùa ẩm nhiều hơn vùng Tây Bắc. Do đó, Đông Bắc thường xuyên bị ảnh hưởng bởi bão nhiệt đới và ít bị gió Lào (gió foehn) tác động vào mùa hè.
- Vùng Tây Bắc Bắc Bộ kéo dài từ bờ phải sông Hồng đến bờ trái sông Lam. Dãy Hoàng Liên Sơn chạy dài theo hướng Tây Bắc - Đông Nam hoạt động như một bức tường chắn, làm suy yếu gió mùa Đông Bắc khi đến đây. Vì thế, khí hậu Tây Bắc ấm hơn Đông Bắc, chênh lệch có thể lên tới 2-3 °C ở cùng độ cao. Ở miền núi, hướng và vị trí của khu vực trong dãy núi có ảnh hưởng lớn đến chế độ nhiệt – ẩm; sườn đón gió (sườn đông) nhận lượng mưa lớn trong khi sườn tây tạo điều kiện cho gió 'phơn' (gió lào) hình thành khi thổi xuống các thung lũng. Trong điều kiện trung du và miền núi, việc nghiên cứu khí hậu rất quan trọng vì sự biến đổi khí hậu ở các khu vực nhỏ. Các hiện tượng khí hậu ở miền núi có thể cực đoan, nhất là khi lớp phủ rừng bị suy giảm và lớp phủ thổ nhưỡng bị thoái hóa. Mưa lớn và tập trung gây ra lũ, và trong một số trường hợp, lũ quét có thể xảy ra; hạn hán mùa khô có thể kéo dài và ảnh hưởng nghiêm trọng đến cây cối.
Miền khí hậu Trường Sơn
Kéo dài từ phía Nam (bờ phải) của sông Lam đến Mũi Dinh, phần lãnh thổ này có đặc trưng khí hậu nhiệt đới gió mùa. Miền này có thể chia thành hai khu vực chính:
- Vùng Bắc đèo Hải Vân có mùa đông ngắn hơn so với miền khí hậu phía Bắc và mùa hè chịu ảnh hưởng mạnh của gió Lào (gió Tây khô nóng). Mùa đông ở đây, nhờ vào hình dạng của vùng dọc theo bờ Biển Đông theo hướng Tây Bắc - Đông Nam, tiếp xúc trực tiếp với gió mùa Đông Bắc, trong khi dãy núi Trường Sơn ở phía Tây và phía Nam (tại đèo Hải Vân trên dãy Bạch Mã) chắn gió Đông Bắc. Do vậy, vùng này vẫn bị ảnh hưởng bởi thời tiết lạnh do gió mùa Đông Bắc, thường có mưa nhiều (khu vực từ Hà Tĩnh đến Thừa Thiên Huế) do gió mùa mang hơi nước từ biển vào, trái ngược với thời tiết khô hanh của miền Bắc trong mùa đông. Gió mùa Đông Bắc đến đây bị suy yếu và bị chắn bởi dãy Bạch Mã, ít ảnh hưởng đến các vùng phía Nam. Vào mùa hè, gió mùa Tây Nam thổi từ vịnh Bengal qua lục địa đến dãy Trường Sơn, gây mưa nhiều ở sườn Tây Trường Sơn nhưng vẫn tiếp tục qua dãy núi sang vùng này. Khi gió không còn hơi nước, thời tiết khô nóng (có thể lên đến > 40 °C, độ ẩm chỉ còn 50-60) và gió này được gọi là gió foehn.
- Vùng Duyên hải Nam Trung Bộ từ Đà Nẵng đến Ninh Thuận là khu vực đồng bằng ven biển phía Nam đèo Hải Vân, tương tự như phía Bắc đèo Hải Vân nhưng có nhiệt độ cao hơn và thỉnh thoảng có những đợt lạnh mùa đông tuy không kéo dài. Ảnh hưởng của gió Tây khô nóng ít hơn so với Bắc Trung Bộ và có mùa khô rõ rệt hơn. Về mùa mưa, khu vực từ Đà Nẵng đến Quảng Ngãi có đặc điểm giống như Bắc Trung Bộ. Từ nam Khánh Hòa đến Ninh Thuận, lượng mưa thấp, thường chỉ đạt 700 - 1300 mm.
Một đặc trưng nổi bật của vùng khí hậu này là mùa mưa và mùa khô không trùng lặp với thời điểm mùa mưa và khô của các vùng khí hậu khác. Trong mùa hè, khi lượng mưa ở mức cao nhất trên toàn quốc, thì vùng khí hậu này lại đang trải qua giai đoạn khô hạn nhất.
Miền khí hậu phía Nam
Bao gồm các khu vực Tây Nguyên và Nam Bộ. Miền khí hậu này thuộc loại khí hậu cận xích đạo với hai mùa rõ rệt: mùa khô và mùa mưa (từ tháng 4-5 đến tháng 10-11). Nhiệt độ ở đây luôn cao và biên độ nhiệt độ thấp hơn nhiều so với khu vực Bắc Bạch Mã. Miền này có mùa khô kéo dài và rõ rệt, với khí hậu tương đối ổn định quanh năm.
- Vùng duyên hải cực Nam Trung Bộ (Bình Thuận)
- Vùng cao nguyên Nam Trung Bộ (Tây Nguyên)
- Vùng đồng bằng Nam Bộ
Miền khí hậu Biển Đông
Biển Đông của Việt Nam có đặc điểm nhiệt đới mùa hải dương và tương đối đồng nhất. Khu vực này thường xuyên đón nhận các cơn bão lớn do các xoáy lốc từ Thái Bình Dương di chuyển vào. Vì nằm ở Bắc Bán cầu, các cơn bão và áp thấp nhiệt đới vào Việt Nam thường quay theo chiều ngược kim đồng hồ.
Biến đổi khí hậu
Việt Nam sẽ là một trong những quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề nhất từ biến đổi khí hậu toàn cầu trong những thập kỷ tới. Các nghiên cứu cho thấy biến đổi khí hậu đang diễn ra và sẽ gây ra nhiều tác động tiêu cực như nước biển dâng, xâm nhập mặn, lũ lụt, thay đổi cửa sông, bồi lắng, và gia tăng tần suất các thiên tai như sóng lạnh và triều cường. Những vấn đề này sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến phát triển kinh tế và các lĩnh vực như nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, và cơ sở hạ tầng giao thông.
Những vấn đề như sụt lún đất do khai thác nước ngầm quá mức sẽ làm trầm trọng thêm các tác động của biến đổi khí hậu như nước biển dâng, đặc biệt ở khu vực Đồng bằng sông Cửu Long. Chính phủ, các tổ chức phi chính phủ và cộng đồng đã triển khai nhiều biện pháp để giảm thiểu và thích ứng với các tác động này.
Sách tham khảo
- Lê Bá Thảo. Việt Nam - Các vùng lãnh thổ và địa lý. Nhà xuất bản Thế giới, Hà Nội, 2001.