
Thường (hay còn gọi là nghê thường, xiêm, váy quây theo một số tài liệu cổ) là một kiểu váy quây, được mặc ngoài quần hai ống. Loại trang phục này phổ biến trong dân gian Việt Nam thời kỳ Lý - Trần. Đến thời Nguyễn, nó được gọi là xiêm và được quy định sử dụng trong các buổi lễ và thiết triều, dành cho vua quan, hoàng tộc, và những người có danh vị cao. Về cơ bản, nó là một dạng váy quây kết hợp với áo Tứ Điên.

Lịch sử
Khái niệm quần trong tiếng Hán không hoàn toàn giống với khái niệm 'đồ mặc từ thắt lưng trở xuống, có hai ống để xỏ chân' trong tiếng Việt hiện đại (thế kỉ 20). Theo Trung Quốc y quan phục sức đại từ điển, quần còn được gọi là thường. Do đó, loại váy đụp của phụ nữ miền Bắc, trong dụ vua Minh Mạng, được gọi là 'viên thường' (thường tròn). Trong Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức, nó được gọi là vô triệp vi quần (váy quây không nếp). Lê Tắc ghi nhận thời Trần: Vương hầu và thứ dân mặc áo cổ tròn, thường màu đen, quần bằng là trắng. Loại thường - quần của nam giới thời Lý được Lĩnh ngoại đại đáp ghi nhận: Vua thường mặc quần tía, những người khác mặc quần đen. Quần đen là phục sức trùm bên ngoài của đàn ông. Văn hiến thông khảo ghi chú rằng người Giao Chỉ mặc áo Sam đen không thắt eo, dưới áo Sam thắt quần đen.
Thời Lý - Trần, đàn ông Đại Việt dùng một loại trang phục làm bằng vải hoặc lụa (thường là loại gấp nếp), quây ngoài khố 2 ống, dưới lớp áo Sam, gọi là quần hoặc thường. Vào thời Nguyễn, nó còn được gọi là xiêm. Thường của vua có màu tía, còn của vương hầu và dân thường đều màu đen. Thời Nguyễn, thường kết hợp với Kế y (áo cộc tay cổ tròn) được quy định là trang phục mặc lót của vua quan và hậu phi trong các buổi chầu hoặc tế lễ. Trong Gia Định thành thông chí, Trịnh Hoài Đức cho biết trước năm 1744, khi chúa Nguyễn Phúc Khoát ra lệnh cải cách y phục, người Việt tại Gia Định: vẫn giữ tập tục cũ của Giao Chỉ, người dân xõa tóc đi chân đất, nam nữ đều mặc áo trực lĩnh ngắn tay, áo may khép lại hai bên nách, không có quần, đàn ông dùng một khổ vải quấn quanh eo, dưới mông bó lại thắt vào vùng rốn, gọi là cái khố, đàn bà có váy quây không gấp nếp, đội nón lớn.
Người Việt mặc loại áo dài cổ tròn (viên lĩnh) bốn vạt, gọi là áo tứ điên, dưới thì mặc thường đen. Đàn ông và phụ nữ đều có thể mặc như vậy. Ngoài ra, còn có các kiểu khác như: áo giao lĩnh (cổ chéo) ở trên, dưới quây thường bên ngoài hoặc mặc váy bên trong (với nữ hoặc mặc áo giao lĩnh hay viên lĩnh trên, mặc quần hoặc khố (với nam). Áo may dài quá đầu gối, cài khuy với áo viên lĩnh, buộc vạt bên phải với áo giao lĩnh. Sứ giả Triệu Nhữ Thích bình rằng lối ăn mặc của người Việt thời đó (1125) không khác người Tống là mấy. Thông qua mô tả trang phục nữ thời Trần, vẫn thấy dạng áo cổ tròn bốn vạt đi với thường và váy hoặc áo giao lĩnh vạt chéo đi với thường và váy (tức là váy, thường, quần là các khái niệm khác nhau). Hai dạng trang phục này của nữ còn được sử dụng đến cuối thời Lê - Trịnh.
Ứng dụng
Mặc dù được ghi chép bởi các sử gia nhà Nguyên là 'đàn ông đàn bà đều có thể mặc vậy', các hiện vật còn sót lại từ thời nhà Lê Trịnh cho thấy loại trang phục này chủ yếu được sử dụng cho phụ nữ.
Áo giao lĩnh


Theo các tài liệu cổ minh họa, phụ nữ mặc áo phủ ngoài, bên trong là yếm che ngực. Phía dưới bụng quấn váy, thắt bằng thắt lưng nhuộm màu, hai đầu buông thả. Nếu là hoa nương hoặc quý tộc, ngoài lớp phủ còn có một lớp xiêm thường thêu hoa văn.
Áo ngũ thân, bàn lĩnh
Ngày xưa, để thể hiện sự kín đáo, các loại áo bào phải có xiêm may kín hai sườn, mặc bên trong để che quần. Nếu trong lúc hành lễ mà lộ quần, vua sẽ bị các ngự sử phê bình, còn quan sẽ bị đô sát và hạch tội. Trong các triều lễ, người ta mặc hai lớp áo dài xẻ bên ngoài quần, tiếp theo là xiêm mở phía trước và ngoài cùng là áo bào xẻ bên.
Lễ phục Cổn Miện
Cổn Miện (袞冕), hay Miện phục (冕服) là loại lễ phục cao cấp nhất dành cho nam giới ở Đông Á cổ đại. Nó bao gồm 'quan' (冠, vương miện), 'thượng y' (上衣, áo khoác, thường màu đen), 'hạ thường' (下裳, váy dưới, màu đỏ nhạt), cùng các phụ kiện khác.
Trong lịch sử, Cổn Miện được sử dụng làm lễ phục cao cấp nhất cho vua, hoàng tử và các vị trí quan trọng ở Việt Nam, Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên và nhiều quốc gia khác.
Thời vua Lê Hiến Tông, Cổn Miện còn được dùng làm lễ phục khi vua cày Tịch điền. Bộ lễ phục này bị loại bỏ vào thời Lê Trung Hưng và được phục hồi dưới triều vua Minh Mạng thời Nguyễn. Vào thời Nguyễn, Cổn Miện chỉ được sử dụng trong các nghi lễ tế Nam Giao.



Phân biệt
Chiếc thường bên ngoài thường ngắn hơn chiếc thường (hoặc váy) bên trong, để lộ hai lớp váy. Trong khi đó, ở Trung Quốc (cũng như Nhật Bản và Triều Tiên), thường bên ngoài dài đến sát đất, che kín chiếc thường (hoặc váy) bên trong.

Thực tế, kiểu y phục với thường bên ngoài ngắn hơn thường bên trong cũng xuất hiện ở Trung Quốc trong một số thời kỳ, nhưng không phổ biến như tại Việt Nam triều Lê. Một số ý kiến cho rằng những tranh vẽ của Nhật Bản về Đại Việt có phần không chính xác vì ít người mặc thường ngắn như vậy, nhưng những bức tranh này vẫn là nguồn tư liệu quý giá cho nghiên cứu cổ phong Việt Nam.
Các trang phục tương đồng
- Hakama (袴) - Nhật Bản
- Mamianqun (裳 hoặc 裙) - Trung Quốc
- Chima (裳 hoặc 裙) - Hàn Quốc và Triều Tiên
Phục dựng và tranh luận
Như nhiều trang phục truyền thống khác của Việt Nam, vì thiếu tài liệu lịch sử nên phục sức này không thu hút nhiều sự chú ý. Tuy nhiên, nhờ vào công sức nghiên cứu của các nhà sử học và cộng đồng cổ phục trong nước, 'thường quây' đã được phục hồi sau thời gian dài bị lãng quên, và hiện đã xuất hiện trở lại trong nhiều từ điển tiếng Việt hiện đại. Các hiện vật khảo cổ của Pháp và các ghi chép sử quan trọng chứng minh sự tồn tại của thường quây là có cơ sở và đây là một phần quan trọng trong di sản cổ phục Việt.
Trong những năm gần đây, sự phát triển của mạng xã hội và sự quan tâm từ truyền hình quốc gia đã giúp các tổ chức và cộng đồng cổ phục Việt Nam ngày càng phát triển, đóng góp tích cực vào việc phục dựng trang phục Việt nói chung và thường (xiêm) nói riêng. Các nguồn tư liệu tham khảo quan trọng bao gồm:
- Khâm định Đại Nam hội điển sử lệ - Được biên soạn bởi Nội các triều Nguyễn và dịch bởi Viện Sử học Việt Nam. Đây là bộ sử liệu gần gũi nhất với thời kỳ của chúng ta, ghi chép chính xác về các nghi lễ của triều Nguyễn.
- Ngàn Năm Áo Mũ - Do nhà nghiên cứu Trần Quang Đức biên soạn và xuất bản năm 2013. Đây là một trong những tài liệu uy tín nhất về cổ phục Việt Nam, được nhiều phương tiện truyền thông lớn trong nước ủng hộ.
- Great Vietnam - Đơn vị nghiên cứu và cung cấp giải pháp về cổ phục Việt Nam, được công nhận trong giới cổ phong và Việt phục nhờ các dự án và lễ hội quan trọng.
- Vietnam Centre - Tổ chức quốc tế góp phần quảng bá văn hóa Việt Nam ra thế giới với nhiều sản phẩm phục dựng hấp dẫn và hợp lý.
Có thể vì các nguồn sử liệu về cổ phục, đặc biệt là xiêm, không phong phú nên vẫn còn nhiều tranh cãi về các chi tiết như hoa văn và kiểu dáng của chúng trong đời sống dân tộc xưa, nhưng không ai phủ nhận sự tồn tại của chúng.