TOP 14 bài thuyết minh về món ăn ngày Tết CỰC HAY, mang đến thông tin hữu ích về các món ăn truyền thống trong dịp Tết của người Việt, giúp học sinh lớp 9 dễ dàng trình bày nguồn gốc, ý nghĩa và cách làm các món ăn đó.
Mỗi món ăn đều có giá trị văn hóa riêng, với 14 bài thuyết minh về bánh Tét, thuyết minh về bánh chưng, thuyết minh về món dưa muối, thuyết minh về món củ kiệu... học sinh sẽ có thêm nhiều ý tưởng mới cho bài văn của mình thêm hấp dẫn. Vậy mời các bạn cùng theo dõi bài viết dưới đây của Mytour:
Đề bài: Thuyết minh về món ăn trong dịp Tết là một đề bài nói về Tết của dân tộc hoặc là những món ăn nên ăn trong ngày Tết để mang lại may mắn cho bạn vào năm mới. Các món ăn được mọi người lựa chọn rất cẩn thận về nguyên liệu và cách chế biến.
Thuyết minh về các món ăn ngày Tết xuất sắc nhất
- Dàn ý Thuyết minh về các món ăn ngày Tết
- Thuyết minh về bánh Tét trong ngày Tết (3 mẫu)
- Thuyết minh về bánh chưng (8 mẫu)
- Thuyết minh về món dưa muối
- Thuyết minh về món thịt kho tàu
- Thuyết minh về món củ kiệu
Dàn ý Thuyết minh về các món ăn ngày Tết
I. Mở bài: giới thiệu món ăn ưa thích
Vào mỗi dịp Tết, chúng ta thường làm các món ăn truyền thống như: bánh tét, bánh giày, mứt,… Những món ăn này luôn xuất hiện trong mọi lễ Tết. Một món bánh truyền thống có từ lâu đời, luôn được làm vào các ngày lễ. Một món ăn mà tôi rất yêu thích là bánh chưng. Món ăn này thật sự ngon và bổ dưỡng, tôi rất thích ăn bánh chưng.
II. Phần chính: thuyết minh về bánh chưng
1. Nguồn gốc của bánh chưng:
Sự tích về bánh chưng:
- Bánh chưng được truyền thuyết kể về hoàng tử Lang Liêu trong thời vua Hùng thứ 6
- Món bánh này thể hiện sự quan tâm và biết ơn của nhân dân đến lúa nước.
- Ý nghĩa truyền thống của bánh chưng:
- Bánh chưng symbolize cho quan niệm về vũ trụ của người Việt xưa
- Bánh chưng symbolize cho trời
2. Các nguyên liệu cần chuẩn bị để làm bánh:
- Chuẩn bị lá để gói bánh
- Chuẩn bị lạt buộc
- Chuẩn bị gạo nếp
- Chuẩn bị đỗ xanh
- Chuẩn bị gia vị khác
- Chuẩn bị phụ màu
3. Quy trình chuẩn bị lá để gói bánh:
- Chuẩn bị lá để gói bánh: lá dong hoặc lá chuối, sau đó rửa sạch và phơi khô
- Chuẩn bị gạo nếp: gạo nếp được vo sạch, ngâm để hạt mềm
- Chuẩn bị đỗ xanh: ngâm tách vỏ, giã nhuyễn, sau đó trộn với thịt
- Chuẩn bị thịt lợn: thịt lợn được rửa sạch, cắt nhỏ và ướt gia vị
4. Quy trình thực hiện bánh chưng:
– Gói bánh chưng: bánh chưng được gói bằng tay, khuôn bánh chưng có kích thước khoảng 25 cm x 25 cm
– Luộc bánh chưng: bánh chưng được luộc trong nước, và thời gian luộc khoảng 10 đến 12 tiếng
– Sử dụng bánh chưng
- Bánh chưng được dùng để cúng vào ngày tết
- Bánh chưng được dùng để đón tết
- Bánh chưng được dùng để biếu người thân
III. Kết bài: cảm nhận của tôi về món ăn này
- Bánh chưng là món ăn truyền thống của Việt Nam
- Chúng ta cần duy trì và lưu giữ truyền thống của dân tộc
Thuyết minh về bánh Tết trong dịp Tết
Thuyết minh về bánh Tết - Mẫu 1
Nếu nói bánh Chưng là biểu tượng của Tết miền Bắc thì bánh Tết chính là tinh hoa của Tết miền Nam. Dù ở mỗi nơi lại có bánh Tết khác nhau nhưng bánh Tết Nam Bộ đều tuân theo một khuôn mẫu, một quy trình chung và mang ý nghĩa sâu sắc.
Về nguồn gốc của bánh Tết, có nhiều thông tin khác nhau được đưa ra. Một số nghiên cứu cho rằng nguồn gốc của bánh Tết xuất phát từ sự hòa trộn văn hóa Việt - Chăm-pa, cũng có truyền thuyết kể rằng bánh Tết bắt nguồn từ thời vua Quang Trung Nguyễn Huệ đánh Thanh. Khi vua cho quân nghỉ ngơi và ăn Tết vào năm 1789, vua nhìn thấy một anh lính mang đến một loại bánh rất ngon nên ra lệnh mọi người gói bánh này để ăn Tết, đặt tên là bánh Tết, dần dần tên gọi chuyển thành bánh Tét.
Bánh Chưng có hình vuông tượng trưng cho trời đất, còn bánh Tết có hình trụ dài tượng trưng cho những cột chống trời, nối giữa trời và đất mở ra không gian cho con người sinh hoạt và lao động sản xuất. Chính bởi hình dáng trụ dài này, bánh Tết còn được gọi với cái tên thân thuộc là những đòn bánh Tết. Trong quá khứ, khi cuộc sống còn vất vả, bánh Chưng hay bánh Tết chỉ được gói vào những dịp đặc biệt quan trọng như Tết nguyên đán, ngày nay bánh Tết vẫn được gói vào dịp này, tuy nhiên cũng có thể gói để bán vào bất kỳ thời điểm nào trong năm. Mọi người gói bánh trước Tết để vào ngày Tết có bánh Tết để dâng lên bàn thờ tổ tiên.
Bánh tét được bọc bằng lá chuối hoặc lá dong, nhân gồm gạo nếp, đỗ xanh, thịt lợn. Có nhiều loại bánh tét tùy thuộc vào nhân, nhưng chủ yếu có hai loại là bánh tét mặn và bánh tét ngọt. Bánh tét mặn thường là nhân thịt, còn bánh tét ngọt có các loại nhân như đỗ đen, đỗ đỏ, hạt điều, tạo nên sự đa dạng cho món ăn này. Các địa phương ở Nam Bộ sản xuất những loại bánh tét mang hương vị riêng, mỗi nơi đều cố gắng thể hiện hương vị đặc trưng của mình vào chiếc bánh. Ví dụ, Bến Tre có bánh tét không nhân, chỉ có gạo nếp trộn với đậu và nước cốt dừa, tạo ra hương vị độc đáo. Trước khi bọc bánh, cần chuẩn bị nguyên liệu: rửa sạch lá dong, ngâm gạo, vo rửa gạo và đậu xanh kỹ, thái và ướp thịt hoặc chuẩn bị các loại nhân. Nguyên liệu phải tự nhiên và tươi ngon nhất, màu xanh của gạo được tạo ra bằng cách trộn với nước lá rau ngót hoặc lá dứa, gạo nếp thơm dẻo có độ xốp nhất định. Một chiếc bánh tét được coi là được bọc khéo khi bánh tròn đều, lá dong bọc chặt và khi cắt ra, nhân bánh có hình tam giác.
Quá trình luộc bánh rất quan trọng, ảnh hưởng đến hương vị, độ dẻo và hấp dẫn của bánh. Sau khi bọc xong, bánh được đặt thẳng vào nồi, đổ nước và luộc sôi trong 6 đến 8 tiếng tùy vào số lượng và kích thước của bánh. Khi vớt ra, bánh thường được rửa trong nước lạnh để tránh mốc, nước lạnh giúp bánh cứng và giữ dáng hơn. Khi thưởng thức, cách tốt nhất là dùng lạt để cắt, một tay cầm bánh, một tay cầm đầu dây lạt, cắt rồi kéo nhẹ để có một khoanh bánh tét. Ăn một ít rồi lột vỏ và cắt tiếp, như vậy bánh sẽ được bảo quản tốt hơn. Bánh tét thường được ăn kèm với các loại dưa hành, dưa kiệu, dưa củ quả nếu là bánh tét mặn, hoặc hoa quả nếu là bánh tét ngọt.
Bánh tét là món không thể thiếu trong ngày Tết ở Nam Bộ, mang ý nghĩa cao quý, tượng trưng cho tình mẹ bao bọc con cái, vỏ bánh bọc lấy lớp nhân bên trong giống như tình yêu thương, bảo vệ lẫn nhau, yêu thương nhau. Bánh tét là kết quả của lao động con người, nó cũng tượng trưng cho đất trời, mùa màng, công sức lao động của con người. Sự hiện diện của bánh tét trong ngày Tết mang đến sự ấm áp, sum vầy, không khí hạnh phúc trong mỗi gia đình.
Bánh tét không chỉ là một món ăn, mà còn là biểu tượng của văn hóa, tình cảm và lối sống của người dân Nam Bộ. Từ những chiếc bánh tét trên bàn cơm Tết, người ta nhớ đến những câu chuyện, truyền thống và trao nhau nhiều bài học cuộc sống.
Thuyết minh về bánh Tét - Mẫu 2
Bánh tét bắt đầu trở nên phổ biến từ tỉnh miền Trung Thừa Thiên – Huế. Tùy từng địa phương mà có thêm gia vị và kích thước khác nhau. Phổ biến nhất là bánh dài khoảng 2 gang tay người lớn, đường kính 10cm, khi cắt bánh xếp ba lát tạo thành hình cánh hoa, ở giữa đặt thêm một lát bánh tạo thành hình hoa trên đĩa.
Ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long, người ta thường gói những đòn bánh lớn, nặng hơn 1kg, khi cắt ra đặt gọn trong lòng đĩa, phần vỏ bánh màu xanh cốm, chính giữa là nhân đậu xanh vàng óng.
Nhiều gia đình gói bánh chay không có thịt hoặc đậu xanh trộn thêm đường làm nhân ngọt, cũng có nhà làm bánh tét nhân chuối thay cho nhân đậu xanh. Chuối xiêm trộn thêm ít đường tạo nên nhân đỏ tím nổi bật giữa lớp vỏ nếp trắng.
Bánh tét thập cẩm có nhân đậu xanh, trứng, tôm khô, lạp sườn, hạt sen, lạc, nấm. Loại bánh này ăn rất ngon nhưng cũng khá tốn kém, xưa kia chỉ những gia đình khá giả mới làm.
Bánh phải được buộc thành cặp, có buộc dây để dễ xách, khi tặng người thân, bạn bè phải cả đôi, thay cho lời chúc một năm mới đủ đôi vừa cặp, hạnh phúc, thịnh vượng.
Bánh phải được cắt bằng sợi chỉ tạo cho mặt bánh mịn màng. Ăn bánh với củ kiệu hoặc thịt lợn kho tàu, mùi thơm dẻo của gạo nếp, vị bùi của nhân đỗ, vị béo của thịt lợn và vị chua của củ kiệu hoà quyện với gia vị tạo nên hương vị thật là độc đáo làm người ăn một lần sẽ nhớ mãi.
Thuyết minh bánh Tét - Mẫu 3
Không biết từ bao giờ, trong các món ăn ngày Tết của người miền Nam luôn có mặt món bánh tét. Cũng ít ai giải thích được vì sao Tết đến phải gói bánh tét. Nhân ba ngày Tết, báo điện tử Infonet đã thử đi tìm hiểu nguồn gốc của tục lệ gói bánh tét ngày Tết.
Theo phong tục Tết cổ truyền nồi bánh tét được nấu vào đêm 30 đón giao thừa. Cả nhà thức chờ quanh nồi nấu bánh, trẻ con làm nhiệm vụ chụm bếp lò, tạo nên không khí ấm cúng, sung túc của buổi sum họp gia đình ngày Tết.
Tết, người Nam Bộ chỉ gói hai loại bánh tét là: bánh tét chay và bánh tét mặn. Bánh chay để cúng ông bà, trời đất, bánh mặn dùng trong bữa ăn. Bánh tét ăn kèm với củ kiệu, dưa chua, thịt kho tàu.
Một số sách vở cho rằng, bánh tét là sản phẩm của sự giao thoa nhiều nền văn hóa khác nhau tại miền Nam. Trong đó, chủ đạo là văn hóa Chăm với tín ngưỡng “phồn thực”. Hình dạng bánh tét là hình tượng Linga. Nó không chỉ là món ăn ngày Tết mà còn chứa đựng cả thuyết âm dương, tam tài, ngũ hành với năm màu sắc: màu xanh của lá gói bánh (lá dứa, lá dong hoặc lá chuối), của nếp được bỏ màu khi gói, màu vàng đậu xanh nhân bánh, hai màu đỏ, trắng của thịt ba chỉ làm nhân bánh và màu đen của tiêu trộn vào nhân đậu xanh hoặc ướp thịt nhân bánh. Đó là năm màu của ngũ hành trong triết học phương Đông: hỏa (màu đỏ), thủy (màu đen), mộc (màu xanh), kim (màu trắng), thổ (màu vàng).
Nguyên liệu làm bánh là từ động vật (thịt ba chỉ) và thực vật (lá gói, gạo nếp, đậu xanh), đại diện cho hai cực âm – dương. Ngoài ra, đậu và nếp cũng là hai cực âm – dương khi được trồng ở hai nơi: đậu trên cạn và lúa nếp dưới nước. Âm dương hòa quyện vào nhau không thể tách rời và làm nên một vật phẩm, một món ăn đặc trưng cho ngày Tết cổ truyền.
Mặt khác, tên gọi bánh tét có cách phát âm gần giống với từ “Tết” nên người ta cho rằng bánh tét là bánh Tết được đọc lệch đi theo cách ăn loại bánh này. Điều này giải thích vì sao bánh tét lại có mặt trong ba ngày Tết của người miền Nam.
Theo phong tục Tết cổ truyền nồi bánh tét được nấu vào đêm 30 đón giao thừa. Cả nhà thức chờ quanh nồi nấu bánh, trẻ con làm nhiệm vụ chụm bếp lò, tạo nên không khí ấm cúng, sung túc của buổi sum họp gia đình ngày Tết.
Tết, người Nam Bộ chỉ gói hai loại bánh tét là: bánh tét chay và bánh tét mặn. Bánh chay để cúng ông bà, trời đất, bánh mặn dùng trong bữa ăn. Bánh tét ăn kèm với củ kiệu, dưa chua, thịt kho tàu.
Một số sách vở cho rằng, bánh tét là sản phẩm của sự giao thoa nhiều nền văn hóa khác nhau tại miền Nam. Trong đó, chủ đạo là văn hóa Chăm với tín ngưỡng “phồn thực”. Hình dạng bánh tét là hình tượng Linga. Nó không chỉ là món ăn ngày Tết mà còn chứa đựng cả thuyết âm dương, tam tài, ngũ hành với năm màu sắc: màu xanh của lá gói bánh (lá dứa, lá dong hoặc lá chuối), của nếp được bỏ màu khi gói, màu vàng đậu xanh nhân bánh, hai màu đỏ, trắng của thịt ba chỉ làm nhân bánh và màu đen của tiêu trộn vào nhân đậu xanh hoặc ướp thịt nhân bánh. Đó là năm màu của ngũ hành trong triết học phương Đông: hỏa (màu đỏ), thủy (màu đen), mộc (màu xanh), kim (màu trắng), thổ (màu vàng).
Nguyên liệu làm bánh là từ động vật (thịt ba chỉ) và thực vật (lá gói, gạo nếp, đậu xanh), đại diện cho hai cực âm – dương. Ngoài ra, đậu và nếp cũng là hai cực âm – dương khi được trồng ở hai nơi: đậu trên cạn và lúa nếp dưới nước. Âm dương hòa quyện vào nhau không thể tách rời và làm nên một vật phẩm, một món ăn đặc trưng cho ngày Tết cổ truyền.
Mặt khác, tên gọi bánh tét có cách phát âm gần giống với từ “Tết” nên người ta cho rằng bánh tét là bánh Tết được đọc lệch đi theo cách ăn loại bánh này. Điều này giải thích vì sao bánh tét lại có mặt trong ba ngày Tết của người miền Nam.
Một truyền thuyết khác bổ sung thêm cho nguồn gốc của bánh tét, cách gọi tên bánh và thói quen ăn bánh tét trong ngày Tết được kể như sau:
Vào mùa xuân Kỷ Dậu năm 1789, Nguyễn Huệ và quân ta đánh đuổi quân Thanh ra khỏi đất nước. Lúc bấy giờ quân lính được nghỉ ngơi, ăn Tết. Trong số quân lính có anh lính nọ được người nhà gửi cho món bánh làm từ gạo nếp, nhân đậu xanh, hình dạng như bánh tét ngày nay (tuy nhiên lúc bấy giờ chưa có tên gọi). Anh lính mang bánh mời vua Quang Trung.
Vua ăn thấy ngon bèn hỏi thăm về loại bánh này. Anh lính kể, bánh do người vợ ở quê nhà làm gửi cho. Mỗi lần ăn bánh, anh càng thương, càng nhớ vợ nhiều hơn. Anh mắc chứng đau bụng (có thể xem là đau dạ dày) nhưng khi ăn bánh này thì lại không thấy đau nữa.
Nghe câu chuyện cảm động của anh lính, vua bèn ra lệnh cho mọi người gói loại bánh này để ăn Tết và đặt tên là bánh Tết nhằm ghi nhớ chiến thắng giặc Thanh vào mùa xuân và thể hiện tình cảm gia đình thắm thiết mỗi độ xuân về. Đó được xem là nguồn gốc của bánh tét trong ngày Tết cổ truyền.
Thuyết minh về bánh chưng
Thuyết minh bánh chưng - Mẫu 1
Bánh chưng là biểu tượng không thể thiếu trong dịp Tết cổ truyền. Từ xa xưa đến nay, mỗi dịp Tết đến xuân về, người người nhà nhà lại chuẩn về những nồi bánh chưng rất to để đón Tết. Bởi trong tâm thức của mỗi người thì bánh chưng là món ăn mang ý nghĩa sum vầy, ý nghĩa đoàn viên bình dị nhưng ấm áp.
Người xưa vẫn lưu truyền rằng bánh chưng ngày Tết có từ rất lâu. Mọi người vẫn tin rằng bánh chưng bánh giầy có từ thời vua Hùng thứ 6, và cho đến ngày nay thì nó đã trở thành biểu tượng của Tết truyền thống tại Việt Nam. Người đời vẫn luôn cho rằng bánh chưng minh chứng cho sự tròn đầy của trời đất và sự sum vầy của gia đình sau một năm trời làm việc tất bật, vội vã.
Cho dù là ở miền Bắc, Trung hay Nam thì bánh chưng là món ăn không thể thiếu trong ngày Tết. Có thể nói đây là món ăn được chờ đợi nhiều nhất, vì ngày Tết mới đúng là ngày thưởng thức bánh chưng ngon và ấm áp nhất.
Về nguyên liệu, bánh chưng được làm từ những thứ rất đơn giản và dễ chuẩn bị; kết hợp với bàn tay khéo léo của người gói bánh. Nguyên liệu chủ yếu là nếp, lá dong, thịt, đậu xanh giã nhỏ. Mỗi nguyên liệu đều được chọn lọc thật kĩ để có thể tạo nên món ăn ngon và đậm đà nhất. Về phần nếp thì người ta chọn những hạt tròn lẳn, không bị mốc để khi nấu lên ngửi thấy mùi thơm lừng của nếp. Đậu xanh chọn loại đậu có màu vàng đẹp, nấu nhừ lên và giã nhuyễn làm nhân. Người ta sẽ chọn thịt ba chỉ hoặc thịt nạc, trộn với tiêu xay, hành băm nhuyễn. Một nguyên liệu khác không kém phần quan trọng chính là lá dong để gói bánh. Ở một số vùng khác người ta dùng lá chuối gói bánh nhưng phổ thông nhất vẫn là lá dong.
Lá dong cần có màu xanh đậm, có gân chắc, không bị héo và rách nát. Hoặc nếu những chiếc lá bị rách người ta có thể lót bên trong chiếc lá lành để gói. Khâu rửa lá dong, cắt phần cuống đi cũng rất quan trọng vì lá dong sạch mới đảm bảo vệ sinh cũng như tạo mùi thơm sau khi nấu bánh..
Sau khi đã chuẩn bị tất cả các nguyên vật liệu thì đến khâu gói bánh. Gói bánh chưng cần sự tẩn mẩn, tỉ mỉ và khéo léo để tạo nên chiếc bánh vuông vắn cúng viếng ông bà tổ tiên. Nhiều người cần phải có khuôn vuông để gói nhưng nhiều người thì không cần, chỉ cần gấp 4 góc của chiếc lá dong lại là có thể gói được. Bao bọc xung quanh nhân đậu và thịt là một lớp nếp dày. Chuẩn bị dây để gói, giữ cho phần ruột được chắc, không bị nhão ra trong quá trình nấu bánh.
Công đoạn nấu bánh được xem là khâu quan trọng. Thông thường mọi người nấu bánh bằng củi khô, nấu trong một nồi to, đổ đầy nước và nấu trong khoảng từ 8-12 tiếng. Thời gian nấu lâu như thế là vì để đảm bảo bánh chín đều và dẻo. Khi nước bánh sôi, mùi bánh chưng bốc lên nghi ngút. Lúc đó mọi người bắt đầu cảm nhận được không khí Tết đang bao trùm lấy căn nhà.
Bánh chưng sau khi chín được mang ra và lăn qua lăn lại để tạo sự săn chắc cho chiếc bánh khi cắt ra đĩa và có thể để được lâu hơn.
Đối với mâm cơm ngày Tết thì đĩa bánh chưng là điều tuyệt vời không thể thiếu. Cũng như trên bàn thờ ngày tết, một cặp bánh chưng cúng tổ tiên là phong tục lưu truyền từ bao đời nay. Bánh chưng tượng trưng cho sự trọn vẹn của trời đất, cho những gì phúc hậu và ấm áp nhất của lòng người.
Trong ngày Tết có rất nhiều lấy bánh chưng làm quà biếu, và đây chính là món quà ý nghĩa tượng trưng cho lòng thành, cho sự chúc phúc tròn đầy nhất.
Mỗi dịp Tết đến xuân về, bánh chưng bốc lên nghi ngút chính là báo hiệu cho sự ấm áp của gia đình. Bánh chưng là biểu tượng ngày Tết mà không có bất cứ loại bánh nào có thể thay thế được. Vì đây là truyền thống, là nét đẹp của con người Việt Nam, cần gìn giữ và tôn trọng từ quá khứ, hôm nay và cả ngày mai nữa.
Thuyết minh bánh chưng - Mẫu 2
Ngày tết là một ngày mà tất cả mọi người đều coi trọng. Đó là những ngày được coi là ngày hên xui cả năm. Nên mọi người chọn gì để trưng bày ngày tết, ăn uống trong ngày tết rất được chú ý. Tại sao mọi người lại chọn gà để cúng đầu năm mà không chọn vịt? Đó là vì gà đem lại may mắn cho họ. Ngày đầu năm có rất nhiều thứ, nhiều món ăn rất kiêng kỵ.
Các món ăn được mọi người chọn lựa một cách kỹ càng. Để cầu may cho cả gia đình. Ví dụ như đầu năm người ta thường làm bánh chưng, bánh tét để cúng ông bà tổ tiên của họ. Nguyên liệu được làm bằng nếp, gạo để diễn tả cho sự may mắn, quanh năm đều có gạo, nếp trong nhà. Còn thể hiện sự đầy đủ, cơm ăn áo mặc. Không chỉ vậy, trái cây còn được mọi người chuẩn bị rất đầy đủ như đu đủ, dừa, mãng cầu và một số loại nữa thể hiện cho sự cầu vừa đủ xài trong năm.
Nói đến món ăn không thể nào khước từ được chiếc bánh chưng trong ngày tết. Chiếc bánh chưng thể hiện cho nét văn hóa dân tộc từ bao đời nay. Nó có từ rất lâu, thể hiện cho những công đoạn cực khổ mới có được nó. Như từ khi gieo hạt, trồng cấy, thu hái, xay giã, gói luộc đối với người nông dân ở miền xuôi, miền ngược, miền Bắc, miền Nam. Và, bánh chưng cũng có thể được mua như mua các loại hàng hoá khác đối với những người dân các vùng đô thị trong nước và ở nước ngoài. Chiếc bánh chưng ngày tết dù tự túc, tự sản hay được mua bán như những thứ hàng hoá khác nhưng đều có chung một điểm: Đó là sản vật không thể thiếu để dâng cúng lên cha mẹ, ông bà, tổ tiên trong ngày Tết.
Không chỉ vậy, khi chúng ta ăn một miếng bánh chưng sau khi cúng lễ tổ tiên, ông bà, cha mẹ, dư vị thời gian, không gian huyền thoại của lịch sử như cùng quy tụ trong màu xanh của bánh, mùi thơm thảo của hạt nếp tiền nhân để cùng suy ngẫm về ý nghĩa triết học và giá trị nhân văn của các truyền thuyết, các sự tích về bánh chưng của người Việt. Bên cạnh đó, chiếc bánh chưng làm ta nhớ đến những nét đẹp văn hóa từ bao đời nay và đó cũng là một cách di dưỡng tinh thần, làm giàu thêm bản sắc văn hoá tâm linh và văn hoá ẩm thực Việt Nam.
Thuyết minh bánh chưng - Mẫu 3
Ngày xưa, vua Hùng muốn nhường ngôi vua cho các con, đã truyền cho hoàng tử nào dâng vật có ý nghĩa và lạ nhất thay vua trị vị đất nước. Lang Liêu đã làm hai loại bánh, trong đó có bánh chưng tượng trưng cho trái đất. Bánh chưng, một trong ba đồ sử dụng trong ngày tết, xuất phát từ sự kiện này.
Truyền thuyết về bánh chưng kể về vua Hùng Vương nhường ngôi cho các con trai. Ông truyền lệnh các con mang lễ vật, trong đó con út dâng bánh chưng và bánh dày. Bánh chưng tượng trưng cho trái đất hình vuông.
Ngày nay, bánh chưng được làm từ lá dong, gạo nếp, đỗ ngâm, thịt lợn... không thể thiếu vào ngày tết.
Để gói bánh chưng, ta có hai hình dạng: vuông và tròn dài. Gói bánh vuông cần lá dong to, dài, xếp hai lá lên nhau, đổ gạo, đỗ, thịt, gạo đỗ. Gấp lá, nén chặt tạo hình vuông. Gói bánh tròn dài cũng tương tự, nhưng buộc dài hơn. Nhân dân thường gói vào những ngày cuối năm, sum họp quây quần chờ giao thừa.
Bánh chưng trong ngày tết mang ý nghĩa lớn. Dù trái đất không hình vuông nhưng bánh chưng vẫn là cách để nhớ về tổ tiên. Nó được ưa chuộng vì đa dạng nguyên liệu và vị ngon. Không thể thiếu trong ngày tết.
Bánh chưng được dùng để thờ cúng ông bà tổ tiên trong ngày tết. Mọi người chọn bánh đẹp để trên bàn thờ cùng hoa quả, bánh kẹo.
Bánh chưng tạo cơ hội sum họp, tạo không khí tết ấm áp. Mọi người quây quần gói bánh, cười đùa chào năm mới. Khi luộc bánh, mọi người ngồi trông bánh bên lửa ấm.
Bánh chưng nóng rất ngon, khi nguội, có thể cắt ra từng miếng rán lại thơm ngon. Người không ăn mỡ cũng có thể ăn vì thịt mỡ khi ninh nhừ không ngấy như khi luộc.
Bánh chưng mang ý nghĩa lớn trong đời sống và tình cảm của người Việt trong ngày tết. Từ khi xuất hiện đến nay, bánh chưng vẫn thơm ngon và ý nghĩa. Khẳng định sự hấp dẫn của mình, không thể thiếu trong ngày tết.
Bánh chưng ngày Tết không chỉ là món ăn ngon mà còn là cách để thể hiện tình cảm, sự kính trọng và lòng biết ơn của người Việt. Bánh chưng là biểu tượng của sự đoàn kết, sum họp và hạnh phúc trong gia đình Việt.
Người xưa tin rằng bánh chưng trong ngày Tết có từ lâu. Nó trở thành biểu tượng của Tết Việt. Bánh chưng thể hiện sự tròn đầy của trời đất và sự sum vầy của gia đình sau một năm làm việc.
Bánh chưng có từ thời vua Hùng Vương thứ 6. Lang Liêu làm bánh chưng để thể hiện tình yêu quê hương. Bánh chưng được chọn làm món ngon nhất và Lang Liêu được chọn làm vua.
Bánh chưng không thể thiếu trong ngày Tết ở cả miền Bắc, Trung và Nam. Nó thể hiện sự chờ đợi, ngon và ấm áp nhất. Nguyên liệu làm bánh quen thuộc và ngon. Cách gói bánh chưng làm cho bánh đẹp mắt, ngon và không bị dính. Bánh chưng có ý nghĩa lớn trong đời sống và tình cảm người Việt trong ngày Tết.
Đĩa bánh chưng là điều tuyệt vời không thể thiếu trên mâm cơm ngày Tết. Cúng tổ tiên bằng cặp bánh chưng là phong tục lưu truyền. Bánh chưng tượng trưng cho sự trọn vẹn của trời đất và phúc hậu nhất của lòng người. Bánh chưng cũng được sử dụng làm quà biếu, tượng trưng cho lòng thành và sự chúc phúc tròn đầy nhất.
Mỗi dịp Tết đến, mùi thơm của bánh chưng lan tỏa, báo hiệu sự ấm áp của gia đình. Bánh chưng không thể thiếu trong ngày Tết, là biểu tượng của truyền thống và nét đẹp văn hóa của người Việt.
Bánh chưng là một phần không thể thiếu trong văn hóa truyền thống của người Việt. Với nguyên liệu đơn giản nhưng kết hợp khéo léo, bánh chưng đã trở thành món ăn ngon đậm đà, đầy ý nghĩa.
Bánh chưng có từ thời vua Hùng Vương thứ 6, với câu chuyện đẹp về Lang Liêu. Mỗi dịp Tết đến, bánh chưng là món quà ý nghĩa để dâng cúng tổ tiên, trời đất.
Nguyên liệu làm bánh chưng đơn giản, nhưng kỹ thuật gói bánh đòi hỏi sự tinh tế, tỉ mỉ. Khâu nấu bánh cũng không kém phần quan trọng, đòi hỏi sự kiên nhẫn và tinh tế từ người làm bánh.
Bánh chưng không chỉ là một món ăn ngon mà còn là biểu tượng của lòng biết ơn, sự kính trọng và tình cảm gia đình trong ngày Tết truyền thống của người Việt.
Bánh chưng là biểu tượng tinh thần của người Việt, không thể thiếu trong những ngày lễ quan trọng như Tết, giỗ chạp. Với người Việt ở xa quê, bánh chưng vẫn giữ nguyên giá trị văn hóa và tinh thần của mình.
Ăn bánh chưng vào dịp Tết không chỉ là thưởng thức một món ăn ngon mà còn là cách tôn vinh truyền thống và lịch sử của dân tộc, làm giàu thêm văn hoá tâm linh của người Việt.
Bánh chưng - biểu tượng tinh thần của người Việt, không chỉ đơn thuần là một món ăn, mà còn mang trong mình những giá trị triết học, nhân văn sâu sắc từ các truyền thuyết và sự tích xưa.
Bánh chưng là một phần không thể thiếu trong mỗi gia đình Việt Nam mỗi dịp Tết đến. Nó đã trở thành một biểu tượng, gắn bó với hương vị Tết cổ truyền dân tộc.
Bánh chưng, món ăn truyền thống của người Việt, không chỉ là thức ăn mà còn là biểu tượng của lòng biết ơn, sự kính trọng và tình cảm gia đình trong ngày Tết.
Theo truyền thuyết, bánh chưng được cho là biểu tượng của lòng biết ơn và kính trọng của con người dành cho đất đai đã sinh ra và nuôi sống họ.
Bánh chưng không chỉ là một món ăn truyền thống mà còn là cách thể hiện sự gắn bó và tôn trọng truyền thống văn hóa của người Việt.
Bánh chưng, với ý nghĩa biểu tượng của sự sum vầy, đoàn kết, vẫn giữ vững vai trò quan trọng trong mỗi gia đình Việt Nam mỗi dịp Tết đến.
Dù có thời gian phát triển và thay đổi, bánh chưng vẫn luôn giữ vị trí đặc biệt trong lòng người Việt, là một phần không thể thiếu trong mỗi dịp lễ trọng đại.
Bánh chưng không chỉ là một món ăn truyền thống mà còn là biểu tượng của sự sum vầy, đoàn kết trong mỗi gia đình Việt Nam, đặc biệt trong dịp Tết Nguyên đán.
Bánh chưng được cho là ra đời từ thời vua Hùng thứ 6, khi hoàng tử Lang Liêu làm món bánh đặc biệt từ lúa gạo và nguyên liệu đơn giản khác.
Nguyên liệu làm bánh chưng vẫn giữ nguyên từ xưa đến nay, với nếp, lá dong, thịt và đậu xanh giã nhỏ, tạo nên hương vị truyền thống đặc biệt.
Công đoạn gói bánh chưng yêu cầu khéo léo và cẩn thận, từ việc chọn lá dong, gói nhân đến cố định phần ruột bánh trước khi nấu.
Quá trình nấu bánh chưng cũng không thay đổi nhiều, với việc nấu bánh trong nồi lớn với lửa từ củi khô trong thời gian dài.
Bánh chưng không chỉ là món ăn truyền thống mà còn là biểu tượng của may mắn, sum vầy trong năm mới, thể hiện lòng biết ơn và tôn kính đối với tổ tiên.
Thuyết minh bánh chưng - Mẫu 8
Bánh chưng từ lâu đã trở thành một biểu tượng truyền thống của người Việt, không chỉ trong các nghi lễ tâm linh mà còn trong đời sống hàng ngày.
Truyền thuyết về bánh chưng, bánh dày từ thời vua Hùng thứ 6 là câu chuyện về sự hiếu khách, sáng tạo và lòng biết ơn đối với tổ tiên.
Bánh chưng, bánh dày không chỉ là món ăn truyền thống mà còn là biểu tượng của lòng biết ơn, tôn kính đối với tổ tiên, mang đậm nét văn hoá dân tộc.
Nguyên liệu và cách làm bánh chưng thể hiện sự sáng tạo, độc đáo và đậm đà bản sắc dân tộc của người Việt.
Đặc biệt hơn nữa, thời gian nấu bánh chưng kéo dài khoảng 10 tiếng, tạo điều kiện cho mọi người sum họp bên nồi bánh trong không khí se lạnh của những đêm giáp Tết, tạo ra những kỷ niệm đáng nhớ.
Bánh chưng là món không thể thiếu trong mâm cơm cúng ông bà tổ tiên vào ngày mùng 3 Tết, mang sắc xanh mướt, đem lại may mắn và là lời chúc phát tài, phát lộc cho mọi người.
Bánh chưng còn được ưa thích khi rán sau Tết, với vị giòn ngọt hòa quyện với mùi thơm đặc trưng, trở thành món ngon mỗi buổi sáng của nhiều người.
Ăn bánh chưng sau khi cúng lễ tổ tiên, người ta như hòa mình vào lịch sử, tinh thần của ngày Tết, làm giàu văn hoá tâm linh và ẩm thực Việt Nam.
Bánh chưng là món đặc trưng của miền Bắc trong khi miền Nam thường có bánh tét, một món ăn tương tự với nguyên liệu và hương vị không khác biệt nhiều.
Bánh chưng ngày càng đa dạng về kích cỡ, hương vị và phần nhân, từ nông thôn đến thành thị, bạn có thể tìm thấy nhiều loại bánh chưng khác nhau, làm phong phú thêm văn hoá ẩm thực Việt Nam.
Thuyết minh về món dưa muối
Vào ngày Tết, bên cạnh bánh kẹo, mứt dưa, hoa trái không thể thiếu những món ăn đậm đà mang vị dân tộc như bánh chưng xanh, thịt kho tàu và dưa chua dân giã.
Món dưa chua có lẽ đã xuất hiện từ rất lâu và trở thành món ăn quen thuộc trong các bữa ăn gia đình, đặc biệt là vào những ngày Tết truyền thống, khi mà mỗi gia đình thường tự làm dưa chua vừa đẹp mắt, vừa ngon miệng.
Dưa chua không cầu kỳ trong cách làm và nguyên liệu, chỉ cần vài chục đến một trăm ngàn là có thể mua đủ nguyên liệu để làm một hũ dưa chua ngon. Đây là một phần không thể thiếu của bữa ăn Tết truyền thống, thường thấy trong những chiếc làn của người bà, người mẹ khi về chợ cuối năm.
Cần chuẩn bị cà rốt, củ cải, đu đủ, hành tím, sự hào, ớt đỏ, nước mắm, đường, lạc để làm dưa món. Tùy sở thích có thể thêm bớt nguyên liệu, nhưng cơ bản là cần đủ các nguyên liệu để có một hũ dưa món đủ vị.
Sau khi chuẩn bị nguyên liệu, làm sạch rau củ và thái nhỏ. Rửa sạch rau củ, cắt thành miếng nhỏ, thái hoa để tạo tính thẩm mĩ. Muối bóp rau củ trong khoảng 10 phút, rửa lại bằng nước lạnh, phơi nắng. Để rau củ héo, người làm chuẩn bị nước muối dưa, đun sôi rồi để nguội hoàn toàn. Sau đó, sắp rau củ vào hũ, đổ nước muối vào, đậy lại và chờ đợi khoảng hai ngày để dưa chua thành phẩm.
Dưa món thành công giữ được màu sắc đẹp, giòn, không quá mềm, thơm ngon, vừa ngọt vừa chua hấp dẫn.
Dưa món kèm bánh chưng, thịt kho, cơm nóng ngon hơn, giúp người ăn không ngán với vị chua đặc trưng. Dưa món cũng là món nhậu hấp dẫn trong những dịp họp mặt.
Trong xã hội hiện đại, dù có nhiều món ăn đắt tiền, sang trọng, món dưa món vẫn giữ vị trí quan trọng trong bữa ăn ngày Tết, là một hương vị đặc trưng trong lòng người Việt Nam.
Thuyết minh về món thịt kho tàu
Trong những ngày Tết, bên cạnh những món ăn ngọt, bánh kẹo, thịt kho tàu vẫn là một món mặn được nhiều người yêu thích với hương vị đậm đà miền Nam.
Thịt kho tàu, hay còn gọi là thịt kho hột vịt, có nguồn gốc từ Trung Quốc, được nhiều gia đình miền Nam chế biến trong bữa cơm gia đình vì ưu điểm là thịt giữ được lâu và có thể dùng trong nhiều ngày.
Nguyên liệu chuẩn bị cho món ăn này rất dễ kiếm, bao gồm thịt ba rọi, phèn chua, trứng gà hoặc vịt, nước dừa, và gia vị cơ bản khác. Chuẩn bị thịt ba rọi, thái khúc 4cm, trụng chín, sau đó rửa lại nhiều lần với nước sạch để tẩy phèn chua.
Sơ chế thịt xong, ướp với muối, đường, tỏi, hành tím, ớt, nước mắm... để gia vị ngấm, sau đó xào thịt với dầu, nước màu, nước mắm, nước dừa cho đến khi thịt chín và mềm. Thêm trứng vịt, vặn lửa nhỏ và đợi trong khoảng 1-2 tiếng cho thịt chín hoàn toàn.
Thịt kho tàu thường có trong mâm cơm ngày Tết miền Nam, kèm cơm và dưa kiệu, không ngán. Chắc chắn là món ăn ngon ngày Tết của nhiều gia đình Việt.
Thuyết minh về món củ kiệu
Tết đến, củ kiệu là món ăn truyền thống của nhiều gia đình Việt. Chọn kiệu và ngâm kiệu đều quan trọng, kiệu nên chọn loại vừa phải, đuôi nhỏ, không chọn kiệu trâu vì chứa nhiều nước. Củ kiệu làm không khó, nhưng mỗi vùng miền lại có hương vị riêng.
Củ kiệu không thể thiếu trong bữa ăn ngày Tết, cùng với bánh chưng bánh giầy. Để có củ kiệu ngon, chọn lựa cẩn thận các loại củ quả khác như cà rốt, củ cải, đu đủ. Phơi nắng là công đoạn quan trọng, phơi quá lâu củ sẽ khô héo, chưa đủ nắng củ không ngon. Pha nước ngâm củ kiệu bao gồm nước mắm, dấm, đường, muối, và ớt.
Khi hoàn thành, bạn có thể dùng ngay hoặc chờ sau vài ngày.
Trong cuộc sống hiện đại, món củ kiệu tự làm vẫn giữ vị ngon, chua ngọt đặc trưng. Tết không thể thiếu những hủ củ kiệu trong bữa ăn gia đình. Những người xa quê, nhìn thấy củ kiệu cũng đã đủ để họ nhớ về không khí sum họp của những ngày Tết quê hương.