Tài liệu gồm dàn ý chi tiết cùng 3 bài văn mẫu được chúng tôi tổng hợp từ những bài văn hay nhất của các bạn học sinh trên khắp đất nước. Với tài liệu này, giúp các bạn có nhiều ý tưởng hơn, gợi ý cho việc hoàn thiện bài văn của mình. Mời các bạn cùng tham khảo và tải tài liệu tại đây.
Dàn ý thuyết minh về cây vải
1. Khởi đầu: Giới thiệu về đối tượng cần thuyết minh (cây vải).
2. Phần chính:
- Nguồn gốc và xuất xứ:
+ Là một loại cây thân gỗ có hoa thuộc họ Bồ hòn
+ Có nguồn gốc từ vùng đất miền Nam Trung Quốc.
- Đặc điểm nổi bật:
+ Cây cao từ 5 đến 10 mét.
+ Lá mọc so le, hình dạng giống như lông chim, không có lá chét.
+ Hoa có màu trắng với ánh xanh lục, tụ thành các chùy.
+ Quả vải khi chín có màu đỏ rực, thơm phức.
+ Cùi vải dày và giòn, thường chứa nước mọng dễ ăn.
- Ích lợi:
+ Vải được dùng làm thực phẩm tráng miệng.
+ Sử dụng để sản xuất chè, kẹo và bánh có hương vị của vải.
+ Vải khô thường được xuất khẩu trong và ngoài nước.
- Phương pháp chăm sóc:
Cung cấp đủ nước, nhiệt độ, ánh sáng và phân đạm cho cây vải là rất quan trọng.
3. Tóm lại: Khẳng định tầm quan trọng của cây vải.
Thuyết minh về cây vải - Mẫu 1
Chắc hẳn mùa hè không thể thiếu hương vị của những trái vải ngọt ngào, đậm đà làm ngọt lòng người. Cây vải đã trở nên rất quen thuộc và gần gũi với người dân Việt Nam. Hãy cùng tìm hiểu về nó.
Cây vải thường được trồng nhiều ở các nước như miền nam Trung Quốc, Đông Nam Á, Ấn Độ, miền nam Nhật Bản, Florida và Hawaii (Hoa Kỳ), cũng như các vùng ẩm ướt ở miền đông Australia. Vải là một trong những loại cây được ưa chuộng rộng rãi và dễ phù hợp với khẩu vị của người tiêu dùng. Thân cây vải thường cao khoảng từ 5-10 m, với màu nâu xám và lá giống như lông chim, không có lá chét. Quả vải khi chín có vỏ màu đỏ sẫm và thịt vải mọng nước, thơm ngon.
Vải cần môi trường nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới, ít sương giá, mùa đông nhẹ nhàng và mùa hè nóng ẩm. Cần đất thoát nước tốt, giàu chất hữu cơ, phân loại giống tùy theo khí hậu. Ở Việt Nam, vải thiều được trồng nhiều nhất ở huyện Thanh Hà, Hải Dương, với hương vị thơm ngon hơn so với các vùng khác.
Cây vải có nhiều ứng dụng, từ ăn tráng miệng, làm bánh, kẹo, đến sản phẩm chế biến như vải sấy khô, ướp lạnh, tẩm gia vị. Vải thiều vẫn là giống nổi tiếng nhất ở Việt Nam với cùi dày, ngọt lịm.
Chăm sóc cây vải đòi hỏi quy trình đúng, từ lựa chọn đất trồng đến cách tưới nước và bón phân. Cây cần đất thoát nước tốt, phải được chăm sóc định kỳ để đảm bảo sự phát triển tốt nhất.
Cây vải đã trở nên quen thuộc và quan trọng với người dân Việt Nam trong mỗi mùa hè. Hy vọng cây vải sẽ tiếp tục phát triển trong và ngoài nước.
Thuyết minh về cây vải - Mẫu 2
Nếu mùa xuân đem đến mưa phùn se lạnh, hoa đào hoa mai rực rỡ, thì mùa hè lại mang hương vị thơm ngọt của hoa trái. Đó là hoa phượng đỏ rực, bằng lăng tím bâng khuâng, và dưa hấu, khoai lang. Mùa hè còn là thời của vải thiều, với hương vị đặc trưng của nó trên mảnh đất Việt Nam.
Vải là loại cây thân gỗ, thuộc họ Bồ Hòn, có nguồn gốc từ miền Nam Trung Quốc. Ở Việt Nam, vải được trồng nhiều ở Thanh Hà, Hải Dương và Lục Ngạn, Bắc Giang. Cây vải cao từ 5 đến 10 mét, với lá màu xanh mướt và hoa trắng xanh nhạt nổi bật giữa tán lá. Quả vải khi chín có màu đỏ vàng, mọng nước, vị ngọt riêng.
Với vị ngọt mát, vải làm say lòng biết bao người. Vải được sử dụng làm đồ tráng miệng, ướp lạnh giải khát, hoặc kết hợp với hạt sen nấu chè. Tuy nhiên, ăn vải quá nhiều có thể gây mụn hoặc loét miệng, vì thế nên ăn vừa đủ để thưởng thức hương vị đặc biệt của nó.
Mùa hè là thời điểm vải chín, thường bắt đầu từ tháng 1 và thu hoạch vào cuối tháng 8 hoặc tháng 9. Cây vải cần được chăm sóc đúng cách, từ việc trồng đất đến tưới nước và bón phân.
Giống như các cây khác, vải cũng cần sự chăm sóc kỹ lưỡng. Khi trồng, cần phải chú ý bón phân và tưới nước đúng cách, và cần phải bảo vệ cây khỏi tác động từ môi trường bên ngoài.
Ngày nay, với sự phát triển của xã hội, vải đã trở thành một trong những mặt hàng nông sản có thương hiệu, được bày bán rộng rãi trên khắp cả nước. Vải, đặc biệt là giống vải thiều Thanh Hà, đã đem lại giá trị kinh tế không nhỏ, giúp nhiều hộ gia đình thoát nghèo, đồng thời nâng cao danh tiếng cho Đồng bằng sông Hồng và ngành nông sản Việt Nam.
Vải là một biểu tượng của mùa hè, mang lại hương vị ngọt ngào, là món quà tuyệt vời mỗi khi trở về từ xa. Hy vọng rằng, qua sự phát triển của khoa học và công nghệ, chúng ta sẽ tạo ra nhiều giống vải ngon hơn, ngọt hơn, để quả vải trở nên phổ biến hơn và thương hiệu Vải Việt Nam được biết đến trên toàn thế giới.
Vải là biểu tượng của mùa hè, mang lại hương vị ngọt ngào và là món quà tuyệt vời mỗi khi trở về từ xa. Hy vọng rằng, qua sự phát triển của khoa học và công nghệ, chúng ta sẽ tạo ra nhiều giống vải ngon hơn, ngọt hơn, để quả vải trở nên phổ biến hơn và thương hiệu Vải Việt Nam được biết đến trên toàn thế giới.
Hiện nay, chỉ có hai huyện chủ yếu trồng vải là Thanh Hà - Hải Dương và Lục Ngạn - Bắc Giang. Mặc dù sản lượng ở Lục Ngạn nhiều hơn, nhưng vải ở Thanh Hà vẫn được ưa chuộng vì quả to và ngọt hơn.
Về nguồn gốc của giống vải, nhiều người tin rằng cây vải thiều đầu tiên được trồng tại thôn Thuý Lâm, xã Thanh Sơn do cụ Hoàng Văn Cơm mang về. Thành công của giống vải này đã lan ra các xã lân cận và góp phần vào phát triển kinh tế xã hội.
Tuy nhiên, trong Vân Đài Loại Ngữ, Lê Qúy Đôn cũng đề cập đến trái vải như sau:
“Quả vải ngon và đẹp, được khen ngợi bởi các cổ nhân: vỏ bên ngoài như lụa hồng, tơ tía, thịt vải trong suốt như thủy tinh, như tuyết rơi. Bạch Lạc Thiên, Thái Quân Mô đều ca ngợi trong các tác phẩm về đồ ăn và thực phẩm. Nước Nam sản xuất nhiều vải nhất, đặc biệt là vải ở xã An Nhân, huyện Đường Hào rất ngon: ngọt và thơm, không thể nào diễn tả hết. Các vùng khác cũng có vải ngọt, nhưng không thể sánh bằng vải An Nhân. Vải chín vào đầu tháng tư, cuối tháng hái về ăn ngay, không để lâu được. Vải có tính nóng, ai ưa ăn nhiều thì chỉ nên ăn từ sáu đến bảy chục quả; ăn nhiều có thể gây ra tắc khí sinh đờm. Theo sách trong bộ Thuyết Phu khen vải ở đất Mân ngon nhất, có loại phẩm hồng nhất, loại trạng nguyên hồng, cũng như bốn giống khác là: Ma Thắng, Bàn Hoa, đều chín vào tháng bảy. Có loại hạt nhỏ bằng hạt đậu, có loại quả dẹt mà không có hạt. Vải chín vào tháng tư, được gọi là Hỏa Sơn (vải mã lửa), múi mỏng, vị chua, là loại vải hạng bét.
Có người phê phán Tô Đông Pha ăn vải vào tháng tư, cho rằng ông chưa từng đến đất Mân, không biết vị của vải. Thứ vải mà ông ăn chỉ là vải Hỏa Sơn. Sách còn ghi lại: “Người thích vải, một tháng có thể ăn vài nghìn quả, mỗi ngày ăn 30 quả”.
Khi tôi đi sứ Trung Quốc, tôi được quan các tỉnh tặng thứ vải muối, và khi yến tiệc; được ăn thứ vải phơi khô, không khác gì vải của nước nhà.'
Theo sách vở để lại, người Tàu chỉ biết đến trái vải từ thời Tần Mạt, Hán Sơ. Thuở ấy, khi nước ta bị lệ thuộc Trung Quốc, hàng năm phải gửi đi các sản phẩm, trong đó có các loại cây quý. Vải là một trong những mặt hàng phải gửi cho Trung Quốc. Khi đó, người Trung Quốc gọi trái vải là “man quả” (trái của người man). Vua Hán Vũ Đế nghiện loại trái này nên đã lập một khu vực riêng trong vườn thượng uyển, xây dựng một cung điện gọi là Phù Lệ Cung (cung điện để ươm cây vải) và mang về trồng một trăm cây giống từ phương nam. Tuy nhiên, cây không phát triển được vì không phù hợp với đất và khí hậu.
Ban đầu người Trung Quốc gọi vải là li chi vì quả kết thành chùm rất chắc, cần dao mới cắt được. Sau này, chữ li biến thành chữ lệ. Từ miền nam, cây vải lan rộng ra các vùng Quảng Đông, Quế Lâm, Phúc Kiến. Đến thời Càn Long, họ mang giống cây vải đến Đài Loan và hiện nay vải là mặt hàng quan trọng của hòn đảo này. Thời Minh có Tống Giác, người đam mê ăn vải, được gọi là “Lệ Chi Cuồng”. Ông đi khắp nơi, thử đủ loại giống và viết cuốn sách “Lệ Chi Phổ”. Cây vải thích hợp với khí hậu nóng, khô, ít mưa, hiện được trồng ở nhiều nơi trong khu vực Đông Nam Á, Ấn Độ, Phi Châu, Mỹ Châu.
Xét về lịch sử, giống vải thiều được mang từ Trung Quốc về, nhưng lại trở về Việt Nam. Điều này thật thú vị.