Top 3 bài thuyết minh về Chùa Keo xuất sắc, đặc biệt nhất, giúp học sinh lớp 9 hiểu rõ hơn về vị trí địa lý, lịch sử hình thành, và đặc điểm kiến trúc của Chùa Keo - Thái Bình để viết bài văn thuyết minh thú vị.

Chùa Keo nằm tại tỉnh Vũ Thư, là ngôi chùa cổ có niên đại lâu đời nhất, độc đáo và là biểu tượng của người dân Thái Bình. Mời bạn đọc theo dõi bài viết dưới đây của Mytour để nắm bắt thêm nhiều kiến thức, từ đó hoàn thiện bài văn thuyết minh về một điểm đặc biệt trong danh lam thắng cảnh quê hương.
Dàn bài thuyết minh về Chùa Keo
I. Khởi đầu:
Giới thiệu về điểm tham quan chùa Keo ở Thái Bình, có thể dùng một đoạn thơ để mở đầu:
'Dù cha đánh, mẹ treo
Thì vẫn không bỏ qua ngày hội chùa Keo trăng tròn.'
Đây là ngôi chùa cổ có tuổi đời lâu nhất, độc đáo và là biểu tượng, niềm tự hào của người dân ở Thái Bình.
II. Nội dung chính:
a. Tổng quan
- Địa lý: Cách trung tâm Hà Nội khoảng 110 km
- Chùa Keo nằm ở xã Duy Nhất, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình.
- Diện tích: 58000 km2
- Phương tiện: Có thể đi bằng xe máy hoặc ô tô.
- Môi trường tổng quan: Chùa nằm sát bờ đê sông Hồng, trong một khu vực xung quanh là cánh đồng lúa màu xanh ngắt, cây cối tươi tốt suốt năm nhờ nước phù sa từ sông đổ ra.
b. Lịch sử và nguồn gốc:
- Đây là ngôi chùa cổ, đã tồn tại gần 400 năm, được xây dựng từ năm 1630 và hoàn thành vào năm 1632.
- Xây dựng theo phong cách kiến trúc thời Lê.
- Lịch sử: Trước đây, chùa có tên Nghiêm Thần Quang, do Thiền sư Dương Không Lộ xây dựng ở Giao Thủy (Nam Định); nhưng sau đó đã bị lụt và mất. Người dân đã di cư đến khu vực Nam Định và Thái Bình, xây dựng lại chùa Keo như ngày nay.
- Tên gọi: Chùa Keo (Thái Bình) còn được gọi là Thần Quang Tự, Keo là từ tiếng Nôm của Giao Thủy.
c. Kiến trúc của chùa Keo:
- Tất cả gỗ sử dụng trong chùa đều là gỗ lim, rất bền vững, vì vậy dù đã trải qua nhiều thời kỳ thay đổi nhưng chùa vẫn giữ được sự nguyên vẹn đến ngày nay.
- Cấu trúc:
- Chùa gồm tổng cộng 16 tòa, 126 gian, trong đó có 12 tòa và 102 gian chính.
- Cấu trúc chính bao gồm: Tam quan nội, ngoại, Chùa Phật, và các tòa như chùa Ông Hộ, Ống Muống, Tam Bảo, Đền Thánh, Giá Roi, Thiêu Hương, Phụ Quốc, Thượng Điện và Gác Chuông. Ngoài ra, còn có các khu tăng xá, nhà khách, và khu vực dành cho ban quản lý chùa.
- Đặc điểm kiến trúc đáng chú ý: Gác Chuông có kiến trúc độc đáo, cao 11 mét, gồm 3 tầng (tầng 1 treo một chiếc khánh đá dài 1 mét 2, tầng 2 là quả chuông đồng cao 1 mét 3 được đúc từ thời vua Lê Hy Tông, tầng 3 và tầng trên cùng treo một chiếc chuông nhỏ cao hơn nửa mét. Đặc biệt là mái gác chuông có kết cấu gần 100 đàn đầu voi; toàn bộ khung được làm bằng gỗ chắc chắn được gắn kết với nhau bằng mộng.
- Chùa được bố trí và sắp xếp các tượng phật thành các lớp và lưu trữ một lượng lớn các bảo vật, cổ vật có giá trị hàng trăm năm như đồ gốm, nhang án thời Lê, và đôi chân đèn thời Mạc,...
- Phong cảnh chùa Keo, Thái Bình:
- Mặt nước bao quanh 3 mặt trước và hai bên tạo ra không gian mở rộng, tạo cảm giác như ngôi chùa đang vươn mình cao giữa mặt hồ giống như một đóa sen.
- Các tháp và các gian được bố trí đơn giản, tỉ lệ cân đối, không quá lớn mà cũng không quá nhỏ.
- Ngoại cảnh: Bao quanh bởi nhiều cây cổ thụ xanh tốt quanh năm tạo ra vẻ đẹp cổ kính, trong khuôn viên chùa trồng rất nhiều loài hoa quý, cây xanh...
- Lễ hội chùa Keo diễn ra hàng năm vào ngày 13, 14, 15 tháng 9 (Âm lịch) để tưởng nhớ Thiền sư Không Lộ. Ngoài phần lễ rước kiệu, cúng Thánh trang nghiêm túc, chùa còn tổ chức các hoạt động vui chơi dân gian, diễn xướng....
d. Giá trị lịch sử, văn hóa của chùa Keo:
- Trong địa phương: Là biểu tượng, niềm tự hào của tỉnh Thái Bình.
- Trong cả nước: Là một trong những danh thắng có kiến trúc độc đáo và ấn tượng nhất trong nước.
- Top 10 di tích cổ nhất tại Việt Nam.
- Vào năm 1962, chùa Keo được công nhận là Di tích Lịch sử, Văn hóa cấp Quốc gia.
- Vào năm 2012, chùa được chính phủ xếp hạng là Di tích Quốc gia Đặc biệt.
III. Kết luận:
- Xác nhận giá trị, ý nghĩa của chùa Keo.
- Tự chia sẻ cảm nghĩ về danh thắng đặc biệt này.
Thuyết minh về Chùa Keo - Mẫu 1
Chùa Keo nằm tại tỉnh Vũ Thư hiện nay, còn được biết đến với tên gọi chùa Thần Quang. Đây là một ngôi chùa cổ có tuổi đời hơn 400 năm. Chùa Keo được xây dựng vào khoảng năm 1630, và hoàn thành vào năm 1632. Kiến trúc của chùa được thiết kế theo phong cách của thời kỳ Lê.
Ngày nay, chùa Keo Thái Bình vẫn giữ nguyên các công trình, đặc biệt là những công trình được tôn tạo thời Lê Trung Hưng như Tam quan, chùa Phật, đền Thánh, gác chuông, hành lang…
Điều đặc biệt của chùa Keo là cách sắp đặt các giàn tượng pháp: trên tòa Tam thế có tượng Phật quá khứ, Phật hiện tại, Phật tương lai; lớp dưới có Phật Di Đà, Bồ Tát Quan Âm, Bồ Tát Đại Thế Chí; lớp thứ ba có Ngọc Hoàng, Nam Tào, Bắc Đẩu; lớp thứ tư có Văn Thù, Phổ Hiền, La Hán. Tại chùa Keo, chúng ta có thể thấy những cổ vật có giá trị hàng trăm năm như: đôi chân đèn thời Mạc, đồ gốm thời Lê, thuyền rồng Long Đình, Phật Đình, nhang án thời Lê, tất cả được son son thếp vàng lấp lánh.
Không chỉ nổi bật về tượng pháp và những đồ cổ có niên đại hàng trăm năm, chùa Keo còn ấn tượng với kiến trúc kỳ công, vượt trội hơn so với nhiều chùa nổi tiếng khác ở Việt Nam. Tất cả các công trình được làm từ gỗ lim, được tạo hình bởi bàn tay điêu khắc tài ba của các nghệ nhân thời Hậu Lê, tạo ra vẻ đẹp độc đáo cho chùa Keo.
Điểm nhấn trong 107 gian còn lại của chùa chính là gác chuông. Gác chuông của chùa Keo cao 11,04m, thiết kế ba tầng mái, với khung gỗ và 12 mái ngói uốn cong, thanh thoát và nhẹ nhàng. Ngày nay, gác chuông vẫn là biểu tượng du lịch của tỉnh Thái Bình.
Một điều đặc biệt của chùa Keo là cách bài trí ngoại cảnh. Trong khu vườn của chùa có nhiều cây xanh và hoa quý. Quần thể chùa phản chiếu vào ba mặt hồ hình chữ nhật ở phía trước và hai bên. Xung quanh hồ là những cây cổ thụ lớn mát mẻ quanh năm, tạo ra vẻ cổ kính và uy nghiêm cho chùa.
Dân gian có câu:
“Cho dù cha đánh, mẹ treo
Em vẫn không bỏ hội chùa Keo ngày rằm”.
Hàng năm, chùa Keo tổ chức hai mùa lễ hội. Lễ hội mùa xuân bắt đầu từ ngày mồng 4 tháng giêng. Sau những ngày Tết sum vầy bên gia đình, dân làng khắp nơi của tỉnh Thái Bình và các tỉnh lân cận hối hả trẩy hội chùa Keo. Trong lễ hội mùa xuân, du khách sẽ được tham dự lễ dâng hương tại đền Thánh, lễ rước kiệu… và tham gia vào những trò chơi dân gian, nghe những bài hát dân ca Bắc bộ…
Lễ hội chùa Keo mùa thu diễn ra vào các ngày 13, 14, 15 tháng chín âm lịch mỗi năm. Đây là lễ hội chính, nhằm kỷ niệm Thiền sư Không Lộ, người sáng lập chùa Keo. Ngoài những trò chơi dân gian, lễ rước kiệu, cúng Thánh, người dân còn tham gia cúng tiến hương, hoa, trà quả và tham gia vào các cuộc thi diễn xướng với nhiều đề tài sinh động.
Khi đến chùa Keo, du khách còn được nghe kể về những truyền thuyết thú vị như: Từ khi đắc đạo, Thiền sư Không Lộ có thể bay trên không, đi trên mặt nước và thuần phục rắn hổ mang. Truyền thuyết còn kể rằng trước khi viên tịch, ngài biến thành khúc gỗ trầm hương, lấy áo đắp lên và khúc gỗ biến thành tượng. Thánh tượng này được lưu giữ trong hậu cung suốt cả năm và luôn khóa cửa kín.
Chùa Keo nằm ở chân đê sông Hồng, giữa vùng đồng bằng không có núi non, chùa Keo với Gác Chuông như một bông sen nở giữa biển lúa xanh được phù sa sông Hồng bồi đắp. Đây là một trong những di sản quý giá chứng tỏ văn hóa và truyền thống của dân tộc.
Thuyết minh về Chùa Keo - Mẫu 2
Chùa Keo, một khu chùa cổ tuyệt vời, một tác phẩm tiêu biểu, đặc sắc của nghệ thuật kiến trúc Việt Nam.
Chùa Keo tên chữ là chùa Thần Quang, nằm ở Vũ Thư, Thái Bình. Theo sử cũ, chùa Keo được xây dựng từ thời nhà Lý Thánh Tông, đến nay đã nhiều lần được tu bổ.
Trong những di tích còn lại thì chùa Keo là một di tích có quy mô to lớn. Có lẽ ở nước ta chưa có một ngôi chùa nào lại có diện tích lên tới 57.000m2 với 107 gian chùa lớn (trước là 154 gian) được xây bằng gỗ lim. Những con đường dài hàng trăm mét, lát toàn bằng đá xanh rộng gần 2m và 350 cột gỗ lim lớn nhỏ, đều được kê trên những hòn đá tảng lớn, cổ bồng, chạm cánh sen.
Toàn bộ khu chùa là một quần thể kiến trúc lớn, bao gồm cột cờ, sân lát đá, tam quan ngoài, ao trước chùa, tam quan trong, sân đất, chùa Hộ, chùa Phật, sân gạch, tòa Giá Roi, tòa Thiên Hương, tòa Phục quốc, tòa Thượng Điện, gác chuông, nhà Tổ… Ngoài ra, là hai dãy hành lang dài hai bên, từ chùa Hộ trở vào.
Tổ chức không gian kiến trúc ở đây thật tài tình, phức tạp một cách trật tự, theo kiểu 'tiền Phật hậu Thần”. Khu chùa phía trước và khu đền thờ Không Lộ thiền sư phía sau. Bố cục kiến trúc dường như là phá quy luật, như việc đặt gác chuông ba tầng vào cuối dây chuyền của quần thể. Kiến trúc của gác chuông là sự đồ sộ của hình khối, sự phong phú hài hòa của nhịp điệu và chi tiết, chỉ ba tầng cao 11,06m nhưng lại gây được ấn tượng đồ sộ. Bốn cây cột lim chính cao suốt hai tầng, cùng với hệ thống cột niên và những hàng lan can con tiện, đã được kết nối khéo léo. Các tảng cột gác chuông thuần bằng đá, tạc kiểu hình đôn lớn, chạm hình hoa sen kép rất đẹp. Độc đáo nhất là hệ thống dui bay, tầng tầng lớp lớp vươn lên đỡ mái. Các đầu dui bay phía ngoài vươn ra, choãi xuống theo chiều mái, làm tăng thêm chiều cao của công trình. Đứng xa trông như 200 cánh tay Phật Bà Quan Âm từ mái tầng hai, tầng ba vươn ra vẫy chào khách thập phượng! Tôi đã thấy những người khách nước ngoài dừng lại hàng giờ trước tòa gác chuông ba tầng này, sửng sốt và ngắm nghía mãi tầng tầng lớp lớp mái cong cổ kính và hàng ngàn bộ phận chạm trổ tinh vi, mà ngay đến những người thợ lành nghề nhất được mời đến trùng tu cũng không biết hết tên gọi!
Trong gác chuông có treo hai quả chuông niên đại: Hoàng Triều Cảnh Thịnh Tứ Niên, một di tích quý về sự nghiệp “văn trị” của triều Tây Sơn trên đất Thái Bình. Quai đỉnh chuông đúc từ thời Tây Sơn rất đẹp, chạm hình hai con rồng nối đuôi nhau. Ở gác một chùa Keo có một khánh đá rất to, không biết đục từ bao giờ, tiếng khánh âm vang.
Hầu như bất cứ bộ phận kiến trúc nào của chùa Keo cũng thấy dấu vết của những bàn tay chạm khắc khéo léo. Ngay ở tam quan nội, một công trình tưởng như nhỏ, nhưng hai cánh cửa trung quan cung được chạm khắc rất công phu. Cánh cửa cao 2,4m, mỗi cánh rộng 1,2m, được chạm một đôi rồng chầu bán nguyệt. Rồng ở đây to, khỏe. Con lớn vươn cổ lên, miệng ngậm hạt châu, râu bờm uốn sóng, rồi choái ra thành những hình lưỡi mác, ngực rồng ưỡn về phía trước, đuôi vắt lên đỉnh tấm cửa. Hàng trăm đám mây lửa ngùn ngụt bốc lên. Rồng như bay lượn trong biển lửa. Có lẽ những người thợ tài ba muốn ký thác những dấu vết của lịch sử trong bức chạm gỗ này. Khép hai cánh cửa lại, chúng ta nhìn thấy một bức tranh hoàn chỉnh: rồng chầu nguyệt. Cái khéo của bức chạm này là trên cùng một mặt phẳng, người thợ đã chạm những vết nổi, nét chìm, con rồng to, rồng nhỏ, gần xa, như cả một bầy rồng bay thong dong trong mây.
Hàng năm, “xuân thu nhị kỳ” vào ngày 4 tháng giêng và trung tuần tháng 9 âm lịch, khách thập phương cuồn cuộn đổ về dự hội chùa. Từ xa, trên đê sông Hồng, mọi người đã nhìn thấy lá cờ thần to bằng gian nhà, bay trên đỉnh cột cờ cao 21m. Cột cờ lớn chốt vào bệ đá sâu hàng mét, vậy mà cờ bay còn rúng cả cột!
Thuyết minh về Chùa Keo - Mẫu 3
Chùa Thần Quang hay còn được biết đến là chùa Keo, tọa lạc tại huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình. Chùa được xây dựng từ năm 1067, trong thời kỳ nhà Lý. Ngôi chùa này là biểu tượng linh thiêng, gắn liền với niềm tự hào của người dân làng Keo với vẻ cổ kính và tráng lệ.
Từ thành phố Nam Định, qua phà Tân Đệ, rẽ phải, theo bờ đê sông Hồng, đi khoảng 10km là đến chùa. Nằm bên chân đê sông Hồng, giữa vùng đồng bằng không có đỉnh núi, chùa Keo hiện lên như một bông sen đang nở giữa cánh đồng lúa xanh mướt được phù sa sông Hồng bồi đắp từ nước sông Trà Lĩnh.
Chùa Keo được xem là một công trình kiến trúc phức hợp, với nhiều khối kiến trúc đa dạng, phong phú nhất trong các công trình Phật giáo tại Đồng bằng Bắc Bộ. Nó không chỉ là một biểu tượng sống động của lịch sử văn hóa của Việt Nam trong 4 thế kỷ, từ thế kỷ 17 đến 20, mà còn là điểm hội tụ của kiến trúc Trung Hoa và kiến trúc Việt Nam.
Chùa được xây dựng trên một diện tích rộng 100.000 mét vuông, từ chân đê đến thôn Bồng Tiên, với nhiều nhóm kiến trúc xếp theo một trục dài với sự biến đổi cao thấp.
Từ cột cờ cao 25m bằng gỗ chò thẳng đứng ở ngoại cùng, đi qua sân đá lát, du khách sẽ tiếp tục đến tam quan bên ngoài, hồ sen, tam quan bên trong với cánh cửa, cao 2m, rộng 2,6m, chạm hoa văn rồng với rồng mẹ và rồng con, ôm trọn bầu trăng. Nếu cánh cửa của chùa Phổ Minh thể hiện kiến trúc thời nhà Trần, thì cánh cửa của chùa Keo là minh chứng cho kiến trúc thời nhà Lê.
Tiếp tục qua tam quan, bước vào chùa, sẽ thấy hai bên 24 gian hành lang, nơi các khách hành hương sẽ đi vào chùa lễ Phật và lễ Thánh.
Tiếp tục đi vào phần chùa thờ Phật, bao gồm ba ngôi nhà nối tiếp nhau. Ngôi nhà bên ngoài, gọi là chùa Hộ, ngôi nhà ở giữa gọi là ống muống và ngôi nhà bên trong là Phật điện. Đặc biệt ở đây có tượng Thích Ca nhập Niết bàn, tượng Bồ Tát Quan Âm Chuẩn Đề đặt giữa tượng Văn Thù Bồ Tát và Phổ Hiền Bồ Tát. Khu thờ Phật của chùa Keo có gần 100 tượng Phật.
Ngoài phần thờ Phật, còn có khu thờ Không Lộ - Lý Quốc Sư. Toàn bộ công trình đều được làm từ gỗ lim và được các nghệ nhân thời nhà Hậu Lê điêu khắc rất tinh xảo.
Sau khu thờ Phật là khu thờ thánh. Tại hội chùa Keo, sau khi đã thực hiện các nghi lễ như các hội chùa khác, thường diễn ra các trò chơi như kéo nứa lấy lửa, nấu xôi, nấu chè và nấu cơm chay để cúng Thánh. Phía ngoài có một giếng nước. Bề mặt giếng được xếp bằng 36 cối đá thủng, đã từng dùng để giã gạo nuôi thợ xây chùa từ lâu.
Điều đặc biệt và tiêu biểu nhất ở đây chính là kiến trúc của tòa gác chuông chùa Keo. Gác chuông của chùa Keo được xây dựng với một kiến trúc tinh tế, cao 11,04m, gồm 3 tầng mái, được xây bằng những con sơn chồng lên nhau. Khung gác chuông được làm từ gỗ và liên kết với nhau bằng mộng, nâng bổng 12 mái ngói với 12 đao loan uốn cong tạo ra dáng vẻ thanh thoát, nhẹ nhàng. Gác chuông được xây trên nền gạch xây vuông vắn. Tầng một có treo một khánh đá cao 1,20m. Tầng hai có quả chuông đồng lớn đúc năm 1686, cao 1,30m, đường kính 1m. Hai quả chuông nhỏ treo ở tầng ba và tầng thượng, cao 0,62m, đường kính 0,69m, đều được đúc năm 1796.
Hai hành lang kéo dài từ chùa Hộ, nối liền với nhà tổ và nhà trai, vòng quanh toàn bộ khu chùa.
Khi thăm chùa, bạn có thể chiêm ngưỡng những món đồ thờ quý giá được truyền thống là của Thiền sư Không Lộ như bộ tràng hạt làm từ ngà, một bình vôi lớn và ba vỏ ốc lấp lánh như dát vàng, được truyền thuyết là Không Lộ tìm thấy khi còn làm nghề đánh cá và giữ làm chén uống nước trong những năm tháng tu hành.
Sau gần 400 năm tu sửa, tôn tạo, chùa Keo vẫn giữ được vẻ đẹp độc đáo của kiến trúc mình. Gác chuông với bộ mái gần 100 đầu voi là một viên ngọc quý trong di sản kiến trúc Việt Nam. Bộ cửa chạm rồng là một trong những bộ cửa độc đáo nhất của cả nước. Chùa còn giữ được hàng trăm tượng Phật và đồ thờ từ thời nhà Lê. Chùa Keo có thể xem như một bảo tàng nghệ thuật hàng đầu của thế kỷ 17, với nhiều kiệt tác nổi bật.
Hàng năm vào ngày mùng 4 tháng giêng âm lịch, cư dân làng Keo lại tổ chức hội xuân ngay tại ngôi chùa mang tên làng.
Chín tháng kế tiếp, vào các ngày 13, 14, 15 tháng 9 âm lịch, chùa Keo tiếp tục tổ chức hội mùa thu. Đây là hội lễ chính, để tưởng nhớ 100 ngày từ khi Thiền sư Không Lộ (1016-1094), người sáng lập ngôi chùa, qua đời (ngày 3 tháng 6 âm lịch).
Trong ngày hội, tổ chức lễ rước kiệu, cúng hương, long đình, thuyền rồng và tiểu đỉnh. Trong chùa, diễn ra cuộc thi diễn xướng về đề tài lục cúng: hương, đăng, hoa, trà, quả, thực phẩm, sinh động và sống động.