Đàn bầu là một nhạc cụ dân tộc quen thuộc với người Việt Nam. Âm thanh của nó nhẹ nhàng, du dương và luôn gợi lại những cảm xúc sâu lắng trong lòng người nghe. Dưới đây là một số bài văn mẫu lớp 8 về chủ đề thuyết minh về đàn bầu.
Hy vọng rằng với dàn ý chi tiết và một số bài văn mẫu thuyết minh về đàn bầu dưới đây, thì các bạn học sinh có thể củng cố lại kiến thức Ngữ văn lớp 8 của mình. Sau đây, chúng tôi xin mời các bạn cùng tham khảo nội dung của tài liệu này.
Dàn ý thuyết minh về đàn bầu
I. Bắt đầu:
- Giới thiệu về nhạc cụ đàn bầu.
II. Nội dung chính:
* Xuất xứ, lịch sử:
- Được xem như biểu tượng của văn hóa dân tộc Việt Nam, đàn bầu luôn giữ vị thế hàng đầu trong số các nhạc cụ truyền thống của đất nước.
- Có mặt trong lịch sử dân tộc từ hàng nghìn năm trước.
+ Huyền thoại: Nổi tiếng với câu chuyện về một nàng dâu hiếu thảo, quả cảm hiến tế hung thần để cứu mẹ chồng trên đường lánh nạn, cuối cùng nhận cây đàn bầu làm phần thưởng từ bà tiên.
+ Lịch sử: Đại Việt sử ký toàn thư ghi chép: 'Đàn bầu được sinh ra tại vùng đồng bằng Bắc Bộ, sau đó được người Kinh Việt Nam mang sang Quảng Tây, Trung Quốc....'.
=> Đàn bầu là nhạc cụ truyền thống của dân tộc từ thời xa xưa, chặt chẽ liên kết với cuộc sống lao động và văn hóa cộng đồng. Là biểu tượng của sự sáng tạo độc đáo của dân tộc Việt qua nhiều thế hệ.
* Cấu trúc và hình dạng:
- Kết cấu khá đơn giản, chỉ bao gồm một hộp đàn (hộp cộng hưởng) bằng tre hoặc gỗ, một vòi đàn để tạo ra cao độ và một dây duy nhất, không có phím, xếp vào họ dây và thuộc chi dây gảy.
- Mặt đàn hay hộp đàn thường được làm bằng gỗ ngô đồng, với tổng chiều dài dao động từ khoảng 110-115cm, chiều cao khoảng 10,5cm, với một đầu hộp to hơn đường kính 12,5cm chứa bát âm, đầu còn lại thuôn nhỏ hơn tầm 9,5cm.
- Cần đàn hay còn gọi là vòi đàn, bộ phận chính yếu để tạo ra cao độ, được làm bằng sừng tre dẻo, nay thay bằng sừng trâu với độ dài từ 50 - 70cm, gắn ở đầu nhỏ của hộp đàn, xuyên qua bầu đàn.
- Dây đàn, ngày xưa thường sử dụng dây mây, dây móc se lại, ngày nay người ta đổi sang dùng dây tơ và gần đây nhất là dùng dây kim loại.
- Bầu đàn, được làm bằng phần núm của quả bầu hồ lô (bầu nậm) hoặc được tiện ra từ gỗ.
- Phần dây đàn khi được cố định vào đầu hộp đàn, tạo thành cầu nối giữa bát âm và phần cần đàn, nối liền bầu đàn và vòi đàn.
- Dụng cụ gảy được chế tạo từ nhiều loại vật liệu như tre, giang, thân dừa, gỗ mềm, được tạo thành que có độ dài từ 4 - 4,5cm.
* Đặc điểm âm thanh:
- Âm thanh của đàn bầu có quãng âm rộng 3 quãng tám, nhưng phần hay nhất là ở khoảng 2 quãng tám, với âm thanh tròn, mượt, trong trẻo, sâu lắng và quyến rũ.
- Để thể hiện tốt nhất tiếng đàn bầu, nghệ sĩ cần phải thành thục các kỹ thuật gảy bồi âm, kỹ thuật nhấn, luyến, vỗ, vuốt, láy, rung, giật,...
* Đàn bầu trong văn hóa, nghệ thuật:
- Là một trong những công cụ âm nhạc đặc trưng cho hát Xẩm, thường được sử dụng trong các buổi biểu diễn đơn ca và kết hợp với các nhạc cụ dân tộc khác trong các buổi biểu diễn nghệ thuật như Tuồng, Chèo, Múa rối nước, âm nhạc thính phòng Huế, Đờn ca Tài tử, Cải Lương và trong các tiết mục hòa tấu âm nhạc dân tộc.
- Ngày nay, đàn bầu không chỉ là một phần của truyền thống mà còn trở thành một phần của âm nhạc hiện đại thông qua các tác phẩm mang dáng dấp dân ca, quê hương hoặc làm điểm nhấn đặc biệt trong âm nhạc trẻ.
- Là nguồn cảm hứng cho các tác phẩm thơ ca và âm nhạc.
III. Kết bài:
- Đưa ra nhận xét cá nhân.
Thuyết minh về đàn bầu - Mẫu 1
Trong dòng sông văn hóa âm nhạc dân tộc Việt Nam, đàn bầu nổi lên như một biểu tượng vô cùng đặc biệt và lôi cuốn. Tiếng đàn du dương, trầm lắng đã khiến mọi người khó lòng quên đi. Người ta thường truyền tai nhau câu: 'Làm con gái nhớ tránh xa âm nhạc của đàn bầu'.
'Âm thanh cao vút là tiếng của mẹ, âm điệu trầm bổng là giọng của cha. Lời hát của em ngân nga, chứa đựng tình cảm tương thân tương ái'
Dường như sự đơn giản mộc mạc, gần gũi với cuộc sống quê hương mà sâu lắng đến không ngờ của đàn bầu, đã kết hợp hoàn hảo với tâm hồn của nhà thơ để tạo ra những giai điệu cảm động trong bài thơ ấy. Điều gì đã tạo nên sức hút đặc biệt của cây đàn bầu như vậy?
Có nhiều lý thuyết khác nhau về sự hình thành của đàn bầu trong di sản văn hóa dân gian. Dù chỉ xuất phát từ trò chơi trống đất của trẻ em ở vùng đồng bằng Bắc bộ - đào hố và căng dây qua lỗ đất, khi đập, nghe thấy tiếng bung bung mà người ta đã tạo ra nhạc cụ được gọi là đàn Bầu, làm từ ống tre và quả bầu khô. Từ thời nhà Lý, đàn Bầu đã xuất hiện, nhưng thời đó, nhạc cụ này chỉ được sử dụng để đệm cho những người hát xẩm. Qua thời gian, đàn dần được cải tiến, làm từ những chất liệu tốt hơn như gỗ, sừng. Ông Đỗ Văn Thước, một nghệ nhân làm đàn Bầu, nói rằng 'cuộc sống và mọi sinh hoạt của nông dân Việt Nam đều bắt nguồn từ cây tre: ống nước, ống cơm, rổ rá, đòn gánh. Vì thế, để bảo vệ cây tre, họ thường lấy dây rừng buộc quanh gốc cây, nghe tiếng phát ra từ đó như những cuộc giao lưu tình cảm, khiến người nông dân xưa nghĩ đến việc hạ cây tre thành cọc để căng dây tơ cho tiếng thanh hơn, sau đó sử dụng vỏ quả bầu dài làm hộp cộng hưởng'. Nhưng có lẽ tất cả chỉ là giả thuyết. Thực tế, đàn bầu đã gắn bó với làng quê Việt Nam từ xa xưa mà chưa ai biết chắc chắn.
Cái đặc biệt ở đây là cấu trúc của đàn bầu rất đơn giản. Chỉ với một dây, nó có thể biểu hiện mọi cung bậc âm thanh và tình cảm. Âm thanh của nó cũng có sức cuốn hút lạ kỳ, gần gũi với giọng điệu tiếng nói của người Việt, điều này đã khiến đàn Bầu trở thành một nhạc cụ được mọi người yêu thích.
Để có được cây đàn như ý, người làm đàn phải rất công phu trong việc chọn lựa chất liệu. Cây đàn phải thỏa mãn hai tiêu chí 'Mặt ngô thành trắc', có nghĩa là mặt đàn phải làm từ gỗ cây ngô đồng sao cho vừa xốp vừa nhẹ, thớ gỗ óng ả, thẳng thì mới có độ vang. Khung và thành đàn làm bằng gỗ trắc hoặc gụ, đẹp và bền. Cần rung, còn gọi là vòi đàn, được làm từ sừng trâu. Bầu đàn được làm từ quả bầu khô hoặc làm bằng gỗ. Từ những chất liệu rất đơn giản đó, gia đình nghệ nhân Đỗ Văn Thước đã tạo ra những tác phẩm tinh thần này. Sinh trưởng trong gia đình ba đời đều làm nhạc cụ dân tộc, năm 1953, bác Thước được ông ngoại và cậu truyền nghề. Đến nay, sau khi nghỉ hưu, bác vẫn cùng vợ và con chế tạo ra những chiếc đàn cao cấp chỉ dành cho nghệ sĩ chơi đàn trong các đoàn nghệ thuật. Cũng có nhiều ý kiến khác nhau về cấu tạo của cây đàn. Một số người cho rằng nên kéo dài đàn ra để có âm thanh trầm hơn hoặc chia đàn thành hai dây (một dây cao, một dây thấp), hai cần và mở rộng thùng đàn, nhưng cuối cùng, tất cả đều không phù hợp. Việc sử dụng vòi đàn để căng dây hoặc giảm dây đã tạo ra nhiều âm thanh và cao độ khác nhau. Cần đàn đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra các sắc độ âm thanh khác nhau và làm cho tiếng đàn trở nên tròn, mượt. Mặt đàn với thớ gỗ óng ả, khi kết hợp với hộp cộng hưởng, sẽ tạo ra những âm thanh vang, trong. Đàn cũng được trang trí với nhiều hoa văn hoặc khảm trai với các hình ảnh miêu tả cảnh sống phong phú của người dân Việt Nam. Ngày nay, người ta thường thay thế đàn gỗ bằng đàn điện, kéo dài và làm mỏng thân đàn để tạo ra âm thanh và vang hơn.
Đàn bầu thể hiện thành công các bài dân ca đặc trưng của từng vùng, từng miền của dân tộc. Nó cũng có thể chơi rất tốt các giai điệu nước ngoài, từ nhạc dân gian đến nhạc nhẹ. Nghệ sĩ đàn bầu Kim Thành cho biết, hiện anh vẫn sở hữu một cây đàn bầu đã trải qua 70 năm tuổi đời của nghệ sĩ Bá Sách. Chơi nhạc dân tộc không phải là một nghề làm giàu, nhưng với anh, đó là niềm đam mê từ khi còn là đứa trẻ. Đến nay, anh đã làm nghề này được 32 năm, thông qua lối chơi sáng tạo mỗi lần biểu diễn, anh đã khiến người nghe bị mê hoặc. Anh chia sẻ: 'Năm 1994, tôi được mời sang Anh biểu diễn cho nữ hoàng Elizabeth tại Nhà hát Hoàng Gia. Buổi biểu diễn rất thành công. Sau đó, tôi được mời ở lại đây. Nhưng tôi không thể rời bỏ được tổ quốc và gia đình của mình. Đến năm 1995, một lần nữa nữ hoàng Anh lại mời tôi sang biểu diễn. Đây thực sự là một vinh dự lớn trong sự nghiệp làm nghệ thuật của tôi. Không chỉ có mình tôi, đến nay đã có rất nhiều tài năng trẻ chơi đàn bầu đang được cả nước và thế giới biết đến như Hoàng Tú, Huỳnh Tú...'
Có lẽ vì sự độc đáo không giống ai của đàn bầu mà mỗi khi nói đến Việt Nam, nhiều người ở nước ngoài đã coi đàn bầu như một biểu tượng của Việt Nam 'Quê hương của đàn bầu'. Nhà thơ người Pháp MeRay đã nói: 'Đàn bầu giống như con người Việt Nam. Nghèo mà giàu lòng nhân ái, giản dị mà thanh tao, đơn giản mà phong phú'.
Thuyết minh về đàn bầu - Mẫu 2
“Lắng nghe tiếng đàn bầu, lạnh lùng giữa đêm thâu
Âm thanh đàn bầu, tiếng mẹ trong cung thanh
Cung trầm như giọng cha, em hát vang lên
Tình tang vắt vẻo, tình âm sâu thẳm
Âm nhạc của đàn bầu Việt Nam, vang lên giữa tiếng gió
Ôi! Tiếng cung thanh, cung trầm, rung rinh lòng người sâu thẳm”
Những giai điệu trong bài hát “Tiếng đàn bầu” vô cùng đẹp và cuốn hút. Bài hát đề cập đến một loại nhạc cụ dân tộc đặc trưng của Việt Nam, đó chính là đàn bầu.
Đàn bầu là một loại nhạc cụ dân tộc phổ biến trong các dàn nhạc dân tộc của Việt Nam. Nó còn được gọi là độc huyền cầm. Đây là loại đàn đặc biệt chỉ có một dây. Khi chơi, người nghệ sĩ sử dụng thanh tre nhỏ hoặc mảnh gảy để tạo ra âm thanh và giai điệu đặc trưng.
Hộp cộng hưởng của đàn bầu có thể làm từ thân tre hoặc thân gỗ. Đàn làm từ thân tre thường được sử dụng cho những người đi hát Xẩm. Do điều kiện khó khăn, không có điều kiện chế tạo kỹ lưỡng, chi tiết, nên người ta thường làm từ những vật liệu phổ biến và dễ kiếm.
Đàn hộp gỗ đã trải qua sự cải biên và công phu trong quá trình chế tác, với sự chi tiết tinh xảo hơn. Tính linh hoạt và ưu việt của đàn hộp gỗ cũng được nâng cao. Đây là loại đàn phổ biến trong giới nghệ sĩ chuyên nghiệp. Đàn bầu thích hợp cho những giai điệu trữ tình, nhẹ nhàng và êm dịu. Tuy nhiên, trong hát Xẩm, đàn bầu cũng được sử dụng để tạo ra những bản nhạc sôi động và hứng khởi.
Đàn bầu từ xưa đã được sử dụng để độc tấu hoặc đệm hát, đóng vai trò quan trọng trong dàn nhạc cổ truyền cùng với các nhạc cụ dân tộc khác như đàn nguyệt, đàn tỳ bà, đàn tam…
Ngày nay, đàn bầu có thể hòa âm, kết hợp với các nhạc cụ hiện đại khác hoặc sử dụng độc tấu kết hợp với âm nhạc điện tử để tạo ra những giai điệu mới lạ, độc đáo hơn.
Đàn bầu đã trở thành một công cụ âm nhạc phổ biến từ xưa đến nay, giữ lại giá trị lớn lao và ý nghĩa sâu sắc đối với con người. Hình ảnh đàn bầu và âm thanh mềm mại mà nó tạo ra gợi lên nhiều cảm xúc và ý nghĩa trong lòng mỗi người.
Hình ảnh của đàn bầu luôn được coi trọng và thu hút sự chú ý của mọi người. Mặc dù không phải là phổ biến trong mọi dân tộc, nhưng đàn bầu là một tài sản chung của con người từ xưa đến nay, mang lại giá trị lớn và ý nghĩa sâu sắc nhất. Nó không chỉ tạo ra những âm thanh du dương mà còn giữ gìn truyền thống văn hóa của dân tộc Việt Nam.
Đàn bầu thường được thiết kế một cách tinh tế để tạo ra những âm thanh ý nghĩa và độc đáo nhất, hình ảnh của đàn bầu ngày càng xuất hiện nhiều trong cuộc sống, mang lại giá trị lớn cho con người. Người chơi đàn bầu thường sử dụng que tre, nứa để gảy, tạo ra những âm thanh du dương, gợi cảm và có ý nghĩa sâu sắc, điều này khiến người ta nghĩ đến nhiều điều về đàn bầu. Nhạc cụ truyền thống này để lại những dấu ấn đậm nét trong tâm trí mỗi người.
Âm thanh của đàn bầu rất du dương và dịu dàng, khiến con người yêu mến và trân trọng nó hơn. Giá trị của đàn bầu mang lại ý nghĩa sâu sắc cho những người đam mê âm nhạc. Trong số các nhạc cụ dân tộc Việt Nam, đàn bầu là một trong những loại được người nghe yêu thích mạnh mẽ, với giá trị tinh thần sâu sắc.
Hình ảnh và âm thanh của đàn bầu gợi lên những giá trị to lớn, mang lại điều kiện và ý nghĩa quan trọng cho cuộc sống của mỗi người. Điều này càng tôn vinh những giá trị văn hóa của dân tộc.
Thuyết minh về đàn bầu - Mẫu 3
“Đàn bầu ai gảy tiếng đều vọng lại
Tránh con gái nên tránh tiếng đàn”
Câu ca dao đó phần nào đã thể hiện được sự quan trọng của đàn bầu. Loại nhạc cụ này có thể coi là phương tiện truyền đạt những câu ca dao tuyệt vời. Hay nhà thơ Văn Tiến Lê đã viết:
Một dây nũng nịu nói lên tất cả
Đầy bầu với âm thanh của thiên nhiên
Vậy đặc điểm của đàn bầu là gì?, âm thanh của nó như thế nào?
Liên kết với lịch sử dày đặc của Việt Nam, có một nhạc cụ đã đóng góp vào sự phát triển văn hóa, tinh thần của người Việt, đó chính là Đàn Bầu, một biểu tượng đặc trưng của dân tộc. Theo một góc nhìn khác, hình dáng của nước Việt Nam giống như chữ S mềm mại. Theo từ ngôn ngữ, Việt Nam được ví như “giọt Đàn Bầu”, như thể hiện trong bài thơ nổi tiếng của nhà thơ Phạm Minh Tuấn: “Đất nước tôi mảnh mai như giọt Đàn Bầu”
Đàn bầu, hay còn gọi là độc huyền cầm, là một loại nhạc cụ một dây của người Việt, phát âm bằng cách gảy vào dây. Dựa vào hộp cộng hưởng, đàn bầu có thể chia thành hai loại là đàn thân tre và đàn hộp gỗ.
Về cấu trúc, đàn bầu thường có hình dạng của một ống tròn (được làm từ tre, cọ, hoặc luồng) hoặc hình hộp chữ nhật (được làm từ gỗ); một đầu lớn, một đầu nhỏ hơn một chút; thường có chiều dài khoảng 110cm, đường kính hoặc bề rộng ở đầu lớn khoảng 12,5cm, ở đầu nhỏ khoảng 9,5cm; chiều cao khoảng 10,5cm.
Đối với loại đàn bầu làm từ gỗ, mặt trước và mặt sau của đàn thường được làm bằng gỗ ngô đồng, thông hoặc tung. Mặt đàn hơi có độ cong lên, đáy đàn phẳng với một lỗ nhỏ để treo đàn, một hình chữ nhật ở giữa để thoát âm thanh cùng với việc cầm đàn khi di chuyển và một khoảng trống để buộc dây đàn. Thân đàn được làm từ gỗ cứng như cẩm lai hoặc mun để đảm bảo sự chắc chắn và có thể bắt vít để cố định dây đàn.
Trên mặt đầu lớn của đàn có một miếng xương hoặc kim loại nhỏ gọi là ngựa đàn. Dây đàn được luồn qua ngựa đàn và cột vào trục dây đàn xuyên qua thân đàn, trục này được làm đẹp và được giấu phía sau thân đàn. Ngày nay, người ta thường sử dụng khóa dây đàn bằng kim loại để đảm bảo dây đàn không bị tuột.
Trên mặt đầu nhỏ của đàn có một cần dây được làm từ gỗ hoặc sừng, gọi là cần đàn hoặc vòi đàn. Cần đàn được đưa qua nửa đầu trái của bầu đàn làm từ gỗ khô hoặc gỗ tiện theo một hình dạng tương tự và được cắm vào một lỗ trên mặt đầu nhỏ của vỏ đàn. Một đầu của dây đàn được buộc vào cần đàn ở giữa bầu đàn.
Khi công nghệ điện tử phát triển, để tăng âm lượng của tiếng đàn, người ta lắp một cuộn cảm ứng điện từ có lõi sắt không vào dưới mặt đàn, song song với dây ở phía đầu lớn để cảm nhận âm thanh truyền qua bộ dây đồng trục, đưa tín hiệu đến bộ khuếch đại âm thanh. Loại đàn này chỉ có thể sử dụng dây thép và có nhược điểm là độ méo âm thanh khá lớn so với âm thanh của loại đàn không sử dụng bộ khuếch đại điện tử (đàn nguyên bản).
Que gảy của đàn: thường được làm từ tre, cọ, thân dừa, hoặc gỗ mềm… Người ta thường làm bông hoặc làm đầu nhọn một chút để làm mềm âm thanh khi gảy. Ngày xưa thì thường dùng que dài khoảng 10cm, nhưng ngày nay với nhiều kỹ thuật biểu diễn nhanh hơn, người ta thường dùng que ngắn khoảng 4-4,5cm.
Tiếng đàn bầu mang đậm nét nền nã và dịu dàng, như làm hiện lên tinh thần xa xưa của dân tộc Việt Nam. Âm thanh của nó còn rất mềm mại, tinh tế và nhẹ nhàng. Điều này làm cho đàn bầu thường đi kèm với những bài hát cổ truyền hoặc những câu chuyện mẹ kể.
Qua đây, ta có thể nhìn thấy những đặc điểm và âm thanh đặc trưng của đàn bầu. Nó đem lại cảm giác thuần khiết, dịu dàng và gợi lên những kỷ niệm xa xưa. Đặc biệt ở chỗ nó truyền tải linh hồn của những thứ gọi là quá khứ, những gì giản dị và thân thương nhất.
Thuyết minh về đàn bầu - Mẫu 4
Đất nước Việt Nam, với lịch sử hơn bốn nghìn năm, không chỉ nổi tiếng với những danh lam thắng cảnh tuyệt đẹp và bản sắc văn hóa đa dạng của các dân tộc trên toàn quốc, mà còn nổi tiếng với nhiều nhạc cụ dân tộc độc đáo, trong đó không thể không kể đến đàn bầu.
Đàn bầu, một nhạc cụ đặc trưng của âm nhạc dân tộc Việt Nam, mang lại âm thanh du dương, tạo cảm giác chân chất và thôn quê. Mỗi nhạc cụ đều có đặc điểm riêng, và khi nghe đàn bầu, ta cảm nhận được điều đó. Đàn bầu, hay còn gọi là độc quyền cầm, chỉ có một dây và một hộp cộng hưởng làm từ tre hoặc gỗ, khi chơi, người nghệ sĩ dùng que tre hoặc mảnh nhỏ để gảy vào dây đàn, tạo ra những âm thanh trầm và bổng.
Theo thời gian, đàn bầu đã được cải tiến nhưng vẫn giữ được nét cổ điển. Đàn hộp gỗ ngày nay được gia công tinh tế hơn, dùng cho các bản nhạc trữ tình sâu lắng. Tuy nhiên, nó cũng có thể hòa âm để tạo ra những giai điệu mới mẻ và sống động. Trong thời kỳ hiện đại, việc kết hợp đàn bầu với nhạc cụ hiện đại giúp duy trì bản sắc văn hóa dân tộc.
Đàn bầu, một dụng cụ dân tộc đã thức tỉnh, lột xác để trở nên quan trọng hơn trong cuộc sống. Âm thanh của nó mang lại giá trị văn hóa và tinh thần cho con người. Trong thời đại hiện đại, việc gìn giữ và trân trọng đàn bầu là cần thiết để bảo vệ nét truyền thống văn hóa dân tộc.
Trong thời đại hiện đại như ngày nay, việc bảo vệ và phát triển đàn bầu là cần thiết để duy trì bản sắc văn hóa dân tộc, đem lại ý nghĩa sâu sắc cho mỗi người dân Việt Nam.