Tài liệu này bao gồm cấu trúc chi tiết kèm theo 3 bài văn mẫu được lựa chọn từ những bài làm xuất sắc nhất của học sinh trên toàn quốc. Với tài liệu này, các bạn có thêm nguồn tư liệu để tham khảo, củng cố kiến thức cho bài viết số 5 lớp 10 sắp tới. Ngoài ra, hãy tham khảo thêm một số mẫu văn khác trong chuyên mục Văn 10. Chúc các bạn học tập hiệu quả.
Cấu trúc thuyết minh về làng Tranh Đông Hồ
I. Giới thiệu
- Trải qua hàng thế hệ, tên Đông Hồ đã trở thành biểu tượng của nghệ thuật tranh dân gian Việt Nam.
II. Nội dung chính
1. Nguyên bản và lịch sử
- Làng tranh Đông Hồ nằm ở xã Song Hồ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh.
- Theo các hồ sơ gia phả, nghề tranh tại làng này đã tồn tại từ thời đại Lê, tức là khoảng 500 năm trước.
- Theo dòng dõi của làng, gia đình Nguyễn Đăng Chế đã gắn bó với nghề này trong suốt 20 đời. Ba thế hệ trong gia đình họ đều đam mê tranh Đông Hồ.
2. Quy trình sản xuất
- Không giống như nhiều loại tranh khác, tranh Đông Hồ không được vẽ mà được in trên ván.
- Để tạo ra những bức tranh chất lượng, cần phải có người làm mẫu.
- Người làm mẫu phải đam mê nghệ thuật và có kỹ năng vẽ cao.
- Bước in tranh không hề đơn giản, không phải ai cũng có thể màu lên ván và in được.
- Giấy sử dụng để in tranh thường là loại giấy mịn.
- Trước khi in, giấy được phủ lớp bồi điệp từ vỏ sò, hến để tạo nên bề mặt óng ánh đặc trưng của tranh Đông Hồ.
- Để có bức tranh hoàn hảo, các màu thường được làm từ các nguyên liệu tự nhiên như: than lá tre cho màu đen, vỏ lá tràm cho màu xanh, hoa hòe cho màu vàng, thân cây vang cho màu đỏ thắm, sỏi núi cho màu sơn, và điệp cho màu trắng.
- Gần đây, một số người đã sử dụng màu và hóa chất hiện đại khi in tranh, dẫn đến sản phẩm có vẻ đẹp tăng lên nhưng không giữ được sắc màu tự nhiên và độ bền của tranh truyền thống. Hơn nữa, màu sắc sẽ phai mờ và mất đi sau một thời gian ngắn.
- Tranh dân gian Đông Hồ không chú trọng vào cơ thể học, ánh sáng hoặc quy luật xa gần như tranh hiện đại. Các nghệ sĩ tạo tranh dân gian thường mang tính ước lệ trong cách bố trí và sử dụng màu sắc.
- Tất cả đều áp dụng phong cách vẽ đơn giản để thể hiện, do đó khi ngắm tranh dân gian, chúng ta thường cảm nhận được sự thú vị từ những nét vẽ ngây ngô nhưng rất tự nhiên và hài hòa.
III. Kết bài
- Cần có các biện pháp để bảo tồn và phát triển tranh dân gian Đông Hồ này.
Thuyết minh về làng Tranh Đông Hồ - Mẫu 1
Làng tranh Đông Hồ
Em cây cầu sông Đuống tràn đầy nắng
Cùng anh đi về làng Mái
Làng Mái, nơi hồn văn hóa hiện thị
Với ao xanh mát, và nghề vẽ tranh
Đó là những cảm xúc được thể hiện về một ngôi làng truyền thống từ lâu đã nổi tiếng - Làng tranh Đông Hồ.
Đông Hồ, một cái tên làng quen thuộc nằm bên bờ sông Đuống, xã Song Hồ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh (cách Hà Nội khoảng 35km). Tên làng đã trở nên quen thuộc với mỗi người dân Việt Nam qua những bức tranh dân gian nổi tiếng, phản ánh sâu sắc bản sắc dân tộc. Làng tranh Đông Hồ trước đây còn được gọi là làng Mái (đôi khi được gọi là làng Hồ), nổi tiếng với nghề làm tranh dân gian. Làng Đông Hồ nằm ở bờ nam của sông Đuống, gần bến đò Hồ, ngày nay là cầu Hồ. Để đi từ Hà Nội đến Đông Hồ, bạn có thể đi theo Quốc lộ 5 (đường đi Hải Phòng) đến ga Phú Thụy, sau đó rẽ trái đi chừng 18km, qua các điểm nổi tiếng như phố Sủi, chợ Keo, chợ Dâu (Thuận Thành - Bắc Ninh) là đến phố Hồ - huyện lỵ Thuận Thành. Rẽ trái thêm 2km là đến làng Hồ. Hoặc bạn có thể đi hết phố Hồ, lên đê rẽ trái, gặp điếm canh đê thứ hai sẽ có biển chỉ dẫn xuống làng Đông Hồ.
Tranh làng Đông Hồ có từ thời Lê. Tại làng tranh nghèo nàn nhưng hào hoa này, người ta thường nghe câu ca: 'Làng Mái có lịch có lề - Có sông tắm mát, có nghề làm tranh'. Qua nhiều thế kỷ, 17 dòng họ đã tập trung về làng, và từ lâu mọi người đều làm tranh. Không khí sôi động đặc biệt vào các tháng mười một, chạp, khi các thuyền từ xứ Đông và xứ Đoài ghé vào bến để 'ăn tranh'. Người làng tranh thường làm việc từ sáng sớm đến tối khuya trong mùa làm tranh. Trong làng, tiếng chày giã điệp và tiếng cọ rửa vẽ tranh trở nên rất quen thuộc. Làng Đông Hồ ít ruộng, sống chủ yếu bằng nghề làm tranh. Nghề làm tranh trong làng rất được trọng vọng. Những ai có tài cầm, kì, thi, họa thường được mọi người kính trọng. Tranh Đông Hồ, hoặc gọi đầy đủ là tranh khắc gỗ dân gian Đông Hồ, là một dòng tranh dân gian Việt Nam. Trước đây, tranh thường được bán vào dịp Tết Nguyên Đán, người dân mua tranh về dán trên tường, cuối năm lại thay bằng tranh mới.
Tranh làng Đông Hồ không phải là sự sáng tác tự do như tranh hiện đại, mà là quá trình in trên ván gỗ. Tranh được in hoàn toàn bằng tay với các màu vẽ; màu chính được áp dụng trên một bản, và màu đen được in cuối cùng. Nhờ phương pháp in này, tranh được sản xuất với số lượng lớn mà không cần nhiều kỹ năng. Tuy nhiên, vì tranh được in trên ván gỗ bằng cách thủ công, nên có hạn chế về kích thước, thông thường tranh không lớn hơn 50cm. Để có những bản khắc đạt đến trình độ tinh xảo phải có người vẽ mẫu. Những người vẽ mẫu và bản khắc ván đòi hỏi họ phải có lòng yêu nghệ thuật và tâm hồn nghệ sĩ, đặc biệt phải có trình độ kỹ thuật cao. Công đoạn in tranh có lẽ không khó lắm bởi ai cũng có thể phết màu lên ván rồi in. Giấy dùng in tranh là loại giấy mịn. Trước khi in, giấy được bồi điệp làm nền, chất điệp óng ánh lấy từ vỏ sò, con hến đã tạo nên chất liệu riêng biệt của tranh dân gian Đông Hồ. Sau khi in, tranh vẫn giữ được màu sắc tươi mới như lúc tranh ướt. Các hình khối, mảng màu sắc cân đối, hài hòa một cách tự nhiên. Màu sắc trong tranh thường được lấy từ thiên nhiên: màu đen từ lá tre, màu xanh từ lá tràm, màu vàng từ hoa hòe, màu đỏ thắm từ thân cây và rễ cây vang, màu sơn từ sỏi núi, màu trắng từ điệp. Xem tranh dân gian, chúng ta thường cảm nhận được sự thú vị từ những nét vẽ ngây ngô nhưng rất tự nhiên và hài hòa. Tranh Đông Hồ thu hút với sự rực rỡ, sắc màu tươi sáng của bộ tứ bình, Thạch Sanh, gà, lợn, mèo, chuột, ngựa. Một nhà thơ từ Kinh Bắc đã viết:
Bức tranh Đông Hồ với hình ảnh gà, lợn, vẽ nét tươi sáng
Hồn dân tộc rực rỡ trên tờ giấy điệp
Có thể nói, điều đặc biệt của tranh Đông Hồ là ở đây. Tranh dân gian Hàng Trống, Kim Hoàng, Huế... không thể có sắc màu đa dạng như tranh Đông Hồ, cũng không thể có nền giấy điệp quyến rũ như thế. Người yêu tranh Đông Hồ đặc biệt ưa chuộng vì chất dân gian lưu trữ trong tờ tranh trên giấy điệp trắng ngần, nhẹ nhàng phô diễn những bông hoa vàng hoặc đỏ tươi sáng.
Tranh Đông Hồ bao gồm nhiều loại: Tranh thờ - bộ ngũ sự; tranh lịch sử: Hai Bà Trưng, Bà Triệu; truyện tranh: Thánh Gióng, Truyện Kiêu, Thạch Sanh; phổ biến nhất là tranh chúc tụng; ví dụ như tranh Vinh hoa - Phú quý, Nghi xuân, Gà đàn (xem thêm bảy bức tranh gà); tranh sinh hoạt: Đánh ghen, Chăn trâu thổi sáo, Nhà nông, Đám cưới Chuột, Hái dừa. Tranh Đông Hồ thường mang những hình ảnh sung túc như đám cưới chuột, cảnh trai gái hái dừa cùng nhau, hoặc cảnh cá chép nhiều màu sắc vẫy đuôi thể hiện mong muốn về sự phồn thịnh.
Một điều đặc biệt là dù dân làng Hồ chuyên sản xuất tranh nhưng không bao giờ treo trong nhà mà luôn bán đi hoặc cho đi hết. Hàng năm, làng Hồ tổ chức hội làng vào rằm tháng ba âm lịch. Trong hội làng, có nhiều nghi thức truyền thống như tên thân, thi mã, thi tranh diễn ra rất sôi động. Làng cũng truyền thống các điệu nhảy dân ca như:
Đi anh trên đường, người ơi
Dừng lại ngắm cảnh, xua đi buồn phiền
Mua một tờ tranh điệp, màu sắc tươi mới
Mua đàn gà lợn, chúng cùng nhau sanh đẻ.
Theo dòng thời gian, làng tranh đã trải qua nhiều biến động khôn xiết. Các cụ nghệ nhân kể lại rằng: Thời Pháp thuộc, có người từ nhà Bác đôi khi lại đi xe ô tô đến mua tranh, thậm chí còn mua cả bản khắc tranh nữa! Nhà ông Lử có bản khắc tranh gà rất quý giá, đưa đi đóng cửa chuồng gà, người Pháp phát hiện ra hỏi mua ông bán liền. Nhớ lại thì tiếc! Còn cái thời Tây càn, dân làng Hồ hoảng loạn, binh lửa chiến tranh nổ ra liên tục và khí hậu ẩm ướt của miền Bắc, ván khắc tranh bị hỏng và mất nhiều. Bản gốc tranh Đánh ghen, Gà đại cát, lợn ăn lá cũng không còn nữa. Sau ngày Hòa Bình ký kết lại thấy trên báo Pháp có in tranh dân gian làng Hồ, Chính phủ ta phải liên hệ với Đảng Cộng sản Pháp xin phép khắc lại ván tranh để bảo tồn. Một thời gian, tranh dân gian Đông Hồ bị lãng quên nên nghề làm tranh suy giảm một ít. Không ít hộ gia đình từ bỏ làm tranh chuyển sang làm đồ vàng mã. Nhưng vài năm trở lại đây, người Đông Hồ lại vui mừng trở lại với nghề tranh nhiều hơn vì người dân của chúng ta đã nhận ra vẻ đẹp của tranh Đông Hồ trong cuộc sống hàng ngày, đặc biệt là vào những ngày Tết.
Tranh Đông Hồ đã từng lên đến đỉnh cao vinh quang, đã được trưng bày trong các triển lãm nghệ thuật lớn ở nhiều nước trên thế giới với nét vẽ tinh tế, tươi sáng như tâm hồn dân tộc Việt Nam. Không chỉ người Hà Nội và một số tỉnh thành khác trong nước mà còn có nhiều du khách, những người trong lĩnh vực hội họa, mỹ thuật của nước ngoài đến để nghiên cứu về nghệ thuật tranh dân gian nổi tiếng của làng Hồ. Bà con Việt kiều khi về nước cũng phải tìm mua những bức tranh Đông Hồ và cô Tô Nữ dáng quê hương, để khi ở xa quê trong sương mù London hay cái giá lạnh của Paris thì vẫn cảm thấy ấm lòng trong chốn quê nhà.
Thuyết minh về làng Tranh Đông Hồ - Mẫu 2
Tranh Đông Hồ với hình ảnh gà, lợn, vẽ nét tươi sáng
Hồn dân tộc rực rỡ trên tờ giấy điệp
Đây là những câu ca dao quen thuộc khi nhắc đến một trong những làng nghề thủ công mỹ nghệ nổi tiếng tại Bắc Ninh. Nơi lưu giữ không chỉ những giá trị văn hóa tinh thần hồn cốt dân tộc mà còn chứa đựng những nét đẹp tiềm ẩn của con người vùng kinh Bắc.
Nghe đến tên Đông Hồ là nhớ ngay đến một ngôi làng dễ thương nằm ven sông Đuống, thuộc xã Song Hồ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh, cách thủ đô khoảng 35km. Đây là một trong những ngôi làng nổi tiếng với những bức tranh dân gian sôi động, phản ánh bản sắc văn hóa dân tộc.
Theo truyền thống, ngôi làng ban đầu có tên là làng Mái hoặc làng Hồ vì gần bến đò Hồ. Nghề vẽ tranh của làng bắt đầu từ thời nhà Lê, một ngôi làng nghèo mà vẫn truyền tai nhau câu ca 'làng Mái có lịch có sông tắm mát, có nghề làm tranh'. Qua thời gian, 17 dòng họ đã quy tụ về làng, cùng hợp sức phát triển nghề làm tranh. Mỗi khi đến tháng chạp, thuyền từ xứ Đông xứ Đoài ghé bến để 'ăn tranh'. Không khí sôi động khắp nơi, tiếng chày giã điệp rộn ràng... Ở làng Đông Hồ, những người có tài năng vẽ tranh, có niềm đam mê văn hóa hội họa rất được mọi người kính trọng.
Trước đây, tranh Đông Hồ thường được vẽ để phục vụ cho những dịp Tết Nguyên Đán. Người dân mua tranh để dán tường, rồi cuối năm lột bỏ để thay bằng tranh mới. Tranh không được vẽ theo cảm hứng nghệ thuật mà phải in trên ván, thực hiện hoàn toàn bằng tay với các bản màu, mỗi màu dùng một bản và nét in sau cùng. Chính vì vậy, quy trình sản xuất tranh nhanh chóng và không đòi hỏi kỹ thuật cao. Tuy nhiên, kích thước của tranh không được vượt quá 50cm mỗi chiều để tranh giữ được độ tinh xảo. Những người khắc ván tranh phải là những người có tình yêu và niềm đam mê nghệ thuật, đồng thời phải có trình độ kỹ thuật đáng kể.
Quá trình in tranh không quá khó khăn, chỉ cần phết màu lên ván rồi in. Loại giấy in thường là giấy gió mịn. Trước khi in, giấy được bồi giấy điệp, được làm từ vỏ con sò, con hến, tạo ra chất liệu độc đáo. Khi tranh được tạo ra, màu sắc rất ấn tượng và thu hút. Những bức tranh dân gian Đông Hồ nổi tiếng như: Đám Cưới Chuột, Vinh hoa - Phú Quý, Nghi Xuân, Hái dừa thể hiện mong muốn về sự sung túc và an lành.
Tranh dân gian Đông Hồ đã trải qua nhiều biến cố lịch sử. Có một thời gian, nghề tranh bị lãng quên và mai một. Không ít hộ gia đình đã từ bỏ nghề tranh để chuyển sang làm đồ vàng mã. Tuy nhiên, trong vài năm trở lại đây, giá trị đẹp và sang trọng của tranh Đông Hồ đã được nhận ra, từ đó nghề tranh lại được khôi phục trở thành một phần không thể thiếu trong cuộc sống tinh thần, đặc biệt là vào dịp Tết.
Tranh Đông Hồ đã từng tham gia triển lãm nghệ thuật toàn cầu và nhận được phản hồi tích cực từ du khách khắp nơi. Không chỉ giữ lại những giá trị văn hóa của người Việt mà còn thể hiện sự tài năng của con người. Ngày nay, làng tranh dân gian Đông Hồ không chỉ là nơi sản xuất những bức tranh đẹp mà còn là điểm đến du lịch hấp dẫn đối với nhiều du khách.
Thuyết minh về làng Tranh Đông Hồ - Mẫu 3
Làng tranh Đông Hồ tọa lạc tại xã Song Hồ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Từ lâu, người Việt đã quen với nghề làm tranh dân gian nổi tiếng này. Mặc dù trước đây, hầu hết mọi nhà đều sản xuất tranh, nhưng hiện nay, số lượng gia đình chuyên làm tranh Đông Hồ đã giảm đi đáng kể, điều này làm cho những gì còn lại trở nên quý báu hơn bao giờ hết. Người ta không biết chính xác tranh Đông Hồ được ra đời từ thời gian nào, nhưng dựa trên các tài liệu lịch sử trong làng, có thể kể từ thời kỳ đời Lê, tức là khoảng 500 năm trước. Gia đình Nguyễn Đăng Chế được xem là gia đình gắn bó lâu nhất với nghề này, đã có tới 20 đời làm nghề. Trung tâm văn hóa tranh dân gian Đông Hồ, do con cháu của ông đóng góp xây dựng, vừa mới khánh thành với diện tích lên đến 5.500 mét vuông, thật sự tạo ra một không gian văn hóa độc đáo, trở thành điểm đến không thể bỏ qua đối với du khách trong và ngoài nước.
Khác biệt so với nhiều loại tranh khác trên thị trường hiện nay, tranh Đông Hồ không phải được vẽ dựa trên cảm hứng mà là được in trên ván. Để có những bản in đạt đến độ tinh xảo cao, cần phải có người vẽ mẫu. Người vẽ mẫu in lên ván cần phải có tình yêu với nghệ thuật và tâm hồn nghệ sĩ, đặc biệt là kỹ năng cao về mặt kỹ thuật. Quá trình in tranh có lẽ không quá khó khăn vì bất kỳ ai cũng có thể phết màu lên ván và in.
Giấy sử dụng để in tranh là loại giấy mịn. Trước khi in, giấy được bồi lớp điệp làm nền, chất điệp được làm từ vỏ Con sò, con hến, tạo nên chất liệu đặc biệt của tranh Đông Hồ. Để có được một bức tranh đẹp, các màu in thường được chiết từ các nguyên liệu tự nhiên: màu đen được chiết từ lá tre đốt và lấy than, màu xanh từ vỏ lá tràm, màu vàng từ hoa hòe, màu đỏ từ thân và rễ cây vang, màu sơn từ sỏi núi, màu trắng từ điệp. Gần đây, một số người khi in tranh đã sử dụng một số màu và hóa chất hiện đại (làm tăng sản lượng), nhưng chất lượng màu sắc của tranh không thể so sánh với tranh làm theo phong cách truyền thống. Hơn nữa, chỉ sau một thời gian ngắn, màu sắc sẽ mờ đi và không bền.
Tranh dân gian Đông Hồ không áp dụng nghiêm ngặt các nguyên lý về học thuật, về ánh sáng hay cách tiếp cận xa gần như tranh hiện đại. Các nghệ sĩ sáng tạo tranh gian thường mang tính chất ước lệ trong cách bố trí, cách sử dụng màu sắc. Tất cả đều sử dụng phong cách vẽ đơn giản để thể hiện, cho nên khi ngắm tranh dân gian, thường dễ bắt gặp những nét ngây thơ đơn giản nhưng hợp lý và ấn tượng.
Bởi vậy, không chỉ có người dân Hà Nội và một số tỉnh thành khác trong nước yêu thích tranh dân gian Đông Hồ đã dành thời gian để tới làng tranh để khám phá và mua sắm, mà còn có không ít du khách, những người hoạ sĩ, nghệ sĩ ngoại quốc đến đây để tìm hiểu về nghệ thuật tranh dân gian nổi tiếng của làng Đông Hồ. Điều này cũng là một trong những phương tiện để bảo tồn và phát triển nghệ thuật tranh.