TOP 16 bài Thuyết minh về một tác phẩm văn học, một loại văn học tuyệt vời nhất, giúp học sinh hiểu rõ về khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của các thể loại văn học như Lục bát, Đường luật, Truyện ngắn, Hài kịch, Trường ca,... nhanh chóng hoàn thiện bài viết thuyết minh của mình.
Để bài viết thuyết minh trở nên hấp dẫn hơn, hãy chú ý đến các phần chính như nêu nguồn gốc, đặc điểm, ý nghĩa, và sự phát triển. Đặc biệt, cần đưa ra thông tin chính xác và thuyết phục đối với độc giả. Hãy cùng tham gia theo dõi bài viết dưới đây của Mytour:
Đề bài: Thuyết minh về một tác phẩm văn học, một thể loại văn học đơn giản (như văn bản đề nghị, báo cáo, thể thơ lục bát...)
Thuyết minh về một tác phẩm văn học, một loại văn học đơn giản
- Bố cục thuyết minh văn bản, thể loại văn học đơn giản
- Thuyết minh về thể loại văn học Phú
- Thuyết minh về thể loại văn học Trường ca
- Thuyết minh về hài kịch
- Thuyết minh về thể loại văn học Ca dao (2 mẫu)
- Thuyết minh về thơ lục bát (6 mẫu)
- Thuyết minh về truyện ngắn (3 mẫu)
- Thuyết minh về thể thơ Thất ngôn bát cú Đường luật (2 mẫu)
Bố cục thuyết minh văn bản, thể loại văn học đơn giản
1. Thuyết minh về một tác phẩm văn học cần chú ý nhấn mạnh những điểm sau:
- Giới thiệu về các phần, mục của tác phẩm văn học.
- Công dụng của tác phẩm văn học.
- Cách triển khai.
- Những điểm cần chú ý hoặc những lỗi thường gặp cần tránh khi thuyết minh về tác phẩm văn học.
2. Thuyết minh về một thể loại văn học cần tập trung vào những điểm sau
- Đặc điểm của thể loại:
- Về cấu trúc.
- Về âm thanh.
- Về nhịp điệu.
- Số câu, số chữ.
- Nguyên tắc cấu tạo, xây dựng hình tượng.
- Vai trò của thể loại trong lịch sử và trong đời sống văn học nói chung.
Thuyết minh về thể loại văn học Phú
Phú là một thể loại văn chương cổ có nguồn gốc từ Trung Quốc. Trong quá trình nhập khẩu và phát triển, thể loại văn học này đã trải qua nhiều biến đổi và phát triển. Có nhiều nhà văn, nhà thơ Việt Nam thời kỳ này đã sử dụng Phú để sáng tác ra những tác phẩm xuất sắc.
Phú là thể loại văn vần, xuất phát từ thời nhà Hán, nhưng thể loại Phú được sử dụng rộng rãi nhất tại Việt Nam có nguồn gốc từ thời Đường, được gọi là Đường Phú. Theo ngôn ngữ Hán, 'phú' chủ yếu là thể văn miêu tả cảnh vật, nhưng thơ Phú thường dùng cảnh vật để diễn đạt tình cảm, tâm trạng của con người. Thể loại Phú đã được các vị vua chúa Việt Nam sử dụng trong các cuộc thi văn học. Trong kỳ thi Hương và Hội, Phú là một phần không thể thiếu.
Bài thơ phú thường có hai yếu tố chính là vần và đối. Mỗi câu thơ được chia thành hai vế phải đối nhau. Chữ cuối cùng của câu thứ hai trong bài thơ phú thường tạo nên vần, và cấu trúc của câu thơ có thể dài hoặc ngắn, không bị ràng buộc, giúp thể hiện nội dung giống như văn xuôi. Bố cục của bài thơ phú thường gồm năm phần: phần lời nói, phần giải thích nguồn gốc của đề tài, phần miêu tả ý nghĩa, phần diễn đạt ý kiến và phần kết luận vấn đề. Số câu thơ trong một bài phú không cố định, không có giới hạn nhất định. Thường thì câu thơ đầu tiên của mỗi phần thường là câu bốn chữ.
Trong văn chương Việt Nam, có những bài thơ phú nổi tiếng như 'Cư trần lạc đạo phú' của vua Trần Nhân Tông được sáng tác bằng chữ Nôm.
Cư trần lạc đạo thả tùy duyên
Cơ tắc xan hề, khốn tắc miên
Gia trung hữu bảo hưu tầm mịch
Đối cảnh vô tâm mạc vấn Thiền
Vào thế kỉ 19, có bài thơ 'Tụng Tây Hồ phú' của Nguyễn Huy Lượng:
Ngán nhẽ tụng Tây hồ;
Ngán nhẽ tụng Tây hồ!
Vốn trước đã lở hầm toang hoác vũng;
Có lẽ đâu mọc đá nhấp nhô gò?
Người rằng nơi Long tử khoét làm vũng, bởi được bùa quái chú Huyền trao, vậy cáo trắng hách hơi vào đại trạch,
Kẻ bảo ấy Cao vương đào chặn mạch, vì mảng tiếng chuông thầy Khổn nện, nên trâu vàng theo dấu đến trung đô.
...
Trong văn chương phú, Trương Hán Siêu đã sáng tác bài 'Bạch Đằng Giang phú'.
Người đọc thân mến:
Quải hạn mạn trải dài biển rộng,
Thập hạo mơ mộng dưới ánh trăng sáng.
Triệu dát vẻ huyền diệu của thời Nguyên, Tương,
Mộ u nỗi thâm hà của Vũ huyệt.
....
Nội dung của một bài thơ phú thường tập trung vào việc miêu tả phong cảnh. Với đặc điểm không giới hạn số câu thơ và không ràng buộc số từ trong mỗi câu, thể loại thơ phú thường mô tả những cảnh đẹp của thiên nhiên, từ đó kết nối với tâm trạng và cảm xúc của con người.
Trong thời kỳ Trung đại, những nhà thơ thường sử dụng thể loại thơ phú để mô tả vẻ đẹp của đất nước và các hiện vật như cảnh trăng rằm, rừng cây, sông nước, chim muông, hoàng hôn và bình minh. Dựa vào cảnh vật, các tác giả thường biểu lộ tình cảm và suy tư sâu xa. Trong bài 'Bạch Đằng Giang phú', Trương Hán Siêu thể hiện lòng tôn kính và biết ơn đối với những anh hùng đã hy sinh để bảo vệ đất nước. Trong bài 'Cư trần lạc đạo phú', tác giả thể hiện sự tĩnh tâm và lối sống giản dị của một người tu hành. Trong 'Ngọc tỉnh liên phú' của Mạc Đĩnh Chi, tác giả sử dụng hình ảnh hoa sen để nhấn mạnh về giá trị và tài năng của bản thân.
Do đó, thể loại trường ca đã trải qua nhiều biến đổi để phù hợp với văn phong và tư tưởng của người Việt.
Một bài thuyết minh về thể loại văn học Trường ca
Văn học thế giới phát triển đa dạng với nhiều thể loại như thơ ca, hát chèo, truyện ngắn, tiểu thuyết,... và không thể không nhắc đến thể loại trường ca, một trong những thể loại độc đáo trong văn học.
Trong quá khứ, thời cổ đại, những tác phẩm sử thi được coi là trường ca. Hiện nay, các tác phẩm trường ca thường là tác phẩm thơ hoặc văn tự sự với quy mô lớn. Thể loại trường ca đã trải qua nhiều giai đoạn phát triển với nhiều quan điểm và cách đánh giá khác nhau, nhưng vẫn giữ vững vị thế quan trọng trong văn học.
Để hiểu sâu hơn về bản chất của trường ca, một số nhà nghiên cứu đã đưa ra nhiều ý kiến khác nhau. Một số người xác định trường ca dựa trên quy mô và nội dung, cho rằng nó phải có sự rộng lớn về nội dung và cảm xúc. Một số khác định nghĩa trường ca theo cách tự sự hoặc qua việc kết hợp hài hòa giữa tự sự và trữ tình. Dù được định nghĩa như thế nào, trường ca vẫn mang đặc điểm riêng biệt, cho phép người viết thể hiện cảm xúc và tâm trạng của mình.
Cách phân loại trường ca dựa trên nhiều tiêu chí, bao gồm cả nội dung và các loại đề tài như trường cả với câu chuyện lãng mạn, trường ca anh hùng, trường ca giáo huấn,... Thể loại trường ca đa dạng về đề tài, từ đất nước, lịch sử dân tộc đến các vị anh hùng và tôn giáo. Dù là đề tài nào, trường ca luôn có sức hấp dẫn riêng trong từng tác phẩm.
Quá trình phát triển của trường ca qua các thời kỳ được đánh dấu bằng nhiều tác phẩm nổi tiếng. Trong thời cổ đại có những tác phẩm như 'Thiên đường đã mất' của John Milton và 'Thần khúc' của Đante. Thời trung đại có trường ca về hiệp sĩ như 'Chàng Dũng sĩ khoác áo da hổ' của Rustaveli và 'Chàng Orlando cuồng nộ' của Ariosto. Thời kỳ lãng mạn chứng kiến sự nở rộ của trường ca với những tác phẩm tiêu biểu như 'Kỵ sĩ đồng' của Puskin và 'Con quỷ' của Lomontev. Dù suy thoái vào cuối thế kỷ 19, trường ca vẫn có những tác phẩm đáng chú ý như 'Bài ca về Hiawatha' và 'Thần băng giá mũi đỏ'.
Trong văn học Việt Nam, thể loại trường ca cũng đã có sự phát triển đáng kể. Lịch sử dân tộc và những vị anh hùng là nguồn cảm hứng lớn cho các nhà thơ. Theo các nghiên cứu, trường ca Việt Nam đã trải qua hai giai đoạn: trước năm 1975, trường ca thường mang tính sử thi, sau đó là giai đoạn hiện đại với tư tưởng cá nhân hóa. Các tác phẩm trường ca như 'Mặt đường khát vọng', 'Những người đi tới biển', 'Con đường những vì sao', 'Khúc hát người anh hùng', 'Mỗi loài hoa một mặt trời',... đều góp phần vào thành tựu văn học Việt Nam.
Trường ca mang một nét đặc trưng riêng biệt và phong cách đầy xúc cảm, dịu dàng. Thể loại này đã được các nhà văn phát triển một cách linh hoạt và sáng tạo. Hy vọng rằng trường ca sẽ tiếp tục là một bộ phận quan trọng trong văn học hiện đại, nơi các tác giả có thể thể hiện tài năng và quan điểm về thế giới mới, con người mới.
Một bài thuyết minh về thể loại hài kịch
Hài kịch là thể loại kịch mà trong đó các tình huống, hành động được thể hiện với mục đích gây cười hoặc chứa đựng sự hài hước để châm biếm, phê phán những điều tiêu cực, lỗi thời để biến chúng trở nên hài hước và rời xa cuộc sống xã hội một cách vui vẻ.
Hài kịch hướng vào việc châm biếm những điều tiêu cực, lỗi thời, trái ngược với lí tưởng xã hội hoặc đạo đức. Nhân vật trong hài kịch thường không phản ánh đúng bản chất bên trong với danh xưng bên ngoài của họ, tạo ra sự lố bịch. Tính cách trong hài kịch thường được mô tả một cách rõ ràng và gần gũi, đặc biệt là những đặc điểm gây cười. Phạm vi của hài kịch rất rộng lớn, từ vấn đề chính trị xã hội đến các thói xấu hàng ngày.
Hài kịch đã xuất hiện sớm, gần như cùng thời với bi kịch. A-ri-xtô-phan, một nhà viết kịch Hy Lạp cổ đại, được coi là 'cha đẻ' của hài kịch.
Với nội dung và tính chất đa dạng, hài kịch được chia thành nhiều loại khác nhau như hài kịch tính cách, hài kịch tình huống, hài kịch sinh hoạt, hài kịch châm biếm, và nhiều hơn nữa.
Các tác phẩm của Mô-li-e, một nhà hài kịch vĩ đại người Pháp, vẫn được coi là những tác phẩm cổ điển của hài kịch cho đến ngày nay.
Thuyết minh về thể loại văn học Ca dao
Giải thích về thể loại Ca dao - Mẫu 1
Ca dao là thể loại thơ trữ tình đã tồn tại từ xa xưa và rất phổ biến trong văn học dân gian Việt Nam. Nội dung chính của nó thể hiện cuộc sống tinh thần, tình cảm phong phú của người dân thường. Dân ca là sự kết hợp giữa ca dao với những điệu nhạc dân ca. Do đó, ca dao và dân ca thường đi đôi điện như cọ và tường.
Người dân xưa thường sử dụng ca dao và dân ca để thể hiện tâm tình, phản ánh suy nghĩ về cuộc sống. Trong giao tiếp hàng ngày, họ thường dùng các câu ca dao phù hợp để thể hiện tình cảm, thay vì sử dụng lời nói, từ đó làm cho biểu cảm của họ trở nên phong phú hơn. Từ ca dao, người dân phát triển thành những bản dân ca nhằm truyền đạt tinh thần, tình cảm của họ một cách đầy đủ hơn.
Chủ đề chính của ca dao, dân ca là những câu hát thể hiện tâm trạng. Các câu hát này thường đi kèm với các hoạt động lao động, gia đình và cộng đồng. Hình thức hát cũng phong phú, phù hợp với từng nhóm người, từng công việc. Trẻ em thường hát các bài đồng dao trong các trò chơi như: chi chi chành chành, chồng nụ chồng hoa, dung dăng dung dẻ... Nông dân có những bài hát như hò chèo thuyền, hò kéo lưới, thợ dệt có hò vải... Mỗi vùng miền đều có những câu ca dao, những điệu nhạc dân ca đặc trưng cho con người và địa phương. Ví dụ như ở Phú Thọ có xoan, ở Bắc Ninh có quan họ, ở Nghệ - Tĩnh có hát vải và nhiều điệu hò; ở Huế có ca Huế, hò Huế; ở vùng Ngũ Quảng có bài chòi; ở Nam Bộ có các điệu lý, điệu hò của vùng đồng bằng sông nước... Dù có hình thức khác nhau nhưng tất cả đều chia sẻ cùng một nội dung, phản ánh tâm trạng, tình cảm, và ước mong của người lao động thuở xưa.
Một trong những cảm xúc trong sáng và tuyệt vời mà ca dao luôn tôn vinh là tình yêu sâu sắc dành cho quê hương, đất nước. Việt Nam đẹp mê ly, hấp dẫn từng góc phố, từng dòng sông. Từ miền đất đầu tiên của tổ quốc:
“Đồng Đăng với phố Kỳ Lừa,
Có nàng Tô Thị, có chùa Tam Thanh.
Đến vùng đất Lạng cùng anh em,
Không ai phí công bác mẹ sinh ra em.
Thủ đô Hà Nội với văn hiến ngàn năm:
Mọi người mời nhau ngắm cảnh Kiếm Hồ,
Chiêm ngưỡng cầu Thê Húc, chùa Ngọc Sơn.
Đài Nghiên, Tháp Bút vẫn chưa phai mờ,
Người đã tạo dựng nên quê hương này?”
Đến vùng đất miền Trung sông núi thân thiện:
“Đường về vùng Nghệ trải dài,
Non xanh nước biếc như tranh đồ họa…”
Đến vùng đất châu thổ của miền Tây Nam Bộ phong phú, màu mỡ:
“Ruộng Cửu Long gió thổi bay cánh
Sông Cửu Long lấp lánh cá tôm”
Giang sơn hùng vĩ ấy là kết quả của sự đổ mồ hôi, xương máu và nỗ lực xây dựng, bảo vệ qua hàng thế hệ. Do đó, truyền thống yêu nước, không khuất phục trước thử thách, truyền thống lao động siêng năng, đoàn kết và lòng nhân ái của dân tộc Việt Nam là đáng tự hào.
Qua những bài ca dao - dân ca, hình ảnh quê hương với lũy tre, cánh đồng lúa, cây đa bến nước, sân đình cùng những mái nhà dân dã trở nên thiêng liêng trong lòng người Việt. Dù đi đâu, về đâu, dù sống ở đất nào, lòng người vẫn gắn bó, nhớ mãi:
“Anh đi nhớ quê hương dấu yêu,
Nhớ lúa xanh, nhớ cà dầm tươi.
Nhớ người phơi nắng, đắm sương bên lối,
Nhớ ai múc nước, tận tình bên đường xưa”
Nhiều bài học đạo lý được dân ta truyền đạt qua ca dao - dân ca, giáo dục con cháu từ khi còn nhỏ, nhắc nhở phải hiếu thảo với cha mẹ, ông bà:
“Con người có tổ có dòng,
Như cây có gốc như sông có nguồn”
Hoặc:
“Công cha như núi Thái Sơn,
Nghĩa mẹ như dòng nước chảy ra.
Một lòng thờ mẹ, kính cha,
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con”
Khuyến khích anh em phải hòa thuận, thương yêu:
“Anh em như thể tay chân,
Rách nhau thì giúp đỡ nhau vượt qua khó khăn”
Khuyên trai gái yêu nhau phải vượt qua mọi khó khăn để đến với tình yêu chân thành:
“Yêu nhau dù núi cao vượt,
Sông lớn lội ngược dòng cũng qua, đèo dốc khó mà vượt”
Khuyên vợ chồng phải trung thành, kiên định nhưng cứng cỏi như son sắt:
“Cùng nhau lặn biển săn cua,
Về nấu mứt chua trên cành non.
Chua ngọt gắn bó từ ngàn,
Non xanh nước biếc chẳng phôi pha tình anh”
Khuyên bạn bè phải trân trọng, gắn bó với nhau mãi mãi:
“Bạn bè như tương tri nghĩa,
Sao cho sau trước cùng một lòng”
Khuyên mọi người biết chia sẻ, đoàn kết trong lúc khó khăn, hoạn nạn:
“Bầu ơi hãy thương nhau đi,
Dù khác biệt nhưng chung một gốc”
Bên cạnh những câu ca dao – dân ca nói về tình yêu quê hương, đất nước, con người… là những câu thể hiện tâm trạng buồn rầu, đắng cay trước số phận nghèo khó, bất hạnh của người lao động trong xã hội phong kiến đầy áp bức, bất công. Cuộc sống thiếu thốn vật chất cùng với những nỗi đau do sự bóc lột của tầng lớp thống trị gây ra là nguồn cảm hứng tạo ra những bài ca được truyền miệng trong dân gian:
“Thương thay số phận con tằm,
Ăn cũng khó, không ăn cũng khổ.
Thương thay lũ kiến nhỏ bé,
Ăn cũng khó, đi kiếm cũng khổ.
Thương thay con cuốc trên trời,
Kêu thét ra máu cũng vô ích.
Thương thay con hạc ở đình,
Bay muốn mà cất cánh cũng không”
Có thể nói ca dao – dân ca là bức tranh về đời sống xã hội của Việt Nam trong nhiều thế kỷ. Sức sống lâu bền của chúng đến từ đặc điểm nghệ thuật độc đáo. Thể thơ lục bát và song thất lục bát được sử dụng phổ biến với cách gieo vần dễ thuộc, dễ nhớ. Ví dụ:
“Gió đưa gió đẩy về rẫy ăn còng,
Về sông ăn cá về đồng ăn cua”
Hình ảnh so sánh và ẩn dụ trong ca dao đều được lấy từ cuộc sống lao động của nông dân và thiên nhiên quen thuộc. Vì thế mà chúng dễ gây xúc động sâu xa.
Ngôn ngữ của ca dao – dân ca rất giản dị, hồn nhiên và đậm chất địa phương. Ca dao, dân ca vẫn giữ nguyên hơi hướng của lời nói thường ngày. Thành ngữ, tục ngữ và lối chơi chữ cũng được đưa vào ca dao – dân ca một cách khéo léo.
Ca dao – dân ca là gương phản chiếu đời sống của dân tộc Việt Nam; là nền tảng vững chắc cho văn học phát triển. Chúng khẳng định bản chất giàu và đẹp của tiếng Việt – sản phẩm tinh thần vô giá từ tổ tiên.
Thuyết minh về thể loại Ca dao - Mẫu 2
Ca dao tồn tại từ lâu đời và vẫn được truyền bá cho đến ngày nay. Đó là âm nhạc của quê hương, là lời ru thân thiết và chân thành, đậm chất tình cảm.
Ca dao là thể loại văn học quan trọng của dân gian Việt Nam, thể hiện cuộc sống tinh thần của con người. Đó là nguồn cảm hứng cho trẻ em qua lời ru, là cách thể hiện tình cảm của người trẻ, là biểu tượng của lòng biết ơn và tự hào về tổ tiên, là phương tiện để thể hiện cảm xúc của người lao động trong gia đình và xã hội. Ca dao được phân loại dựa trên cung bậc tình cảm thành ba loại.
Loại đầu tiên là những bài hát về tình thương, tình nghĩa, thể hiện tình cảm sâu sắc đối với quê hương, gia đình, bạn bè và đặc biệt là tình yêu lứa đôi. Trong suốt lịch sử, khắp nơi trên đất nước, ca dao kể về vẻ đẹp của núi rừng, sông nước và những thành tựu vĩ đại của dân tộc:
“Sâu nhất là sông Bạch Đằng
Ba lần giặc đến, ba lần giặc tan
Cao nhất là núi Lam Sơn
Có ông Lê Lợi trong ngàn tiến ra”
Ca dao thể hiện tình cảm gia đình, tình yêu lứa đôi một cách trong sáng, hồn nhiên và tha thiết:
“Con người có tổ có tông
Như cây có cội như sông có nguồn”
*
“Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Một lòng thờ mẹ kính cha
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con”
Trong ca dao, tình yêu thương và tình nghĩa là biểu tượng của sự lạc quan, yêu đời, cần cù trong lao động, dũng cảm trong đấu tranh, nhân ái, vị tha và tinh thần hi sinh. Ca dao thể hiện những phẩm chất đẹp của người Việt Nam và khuyến khích họ theo đuổi điều tốt lành trong cuộc sống.
Loại thứ hai của ca dao là những lời than thở về cuộc sống vất vả, gánh nặng áp bức mà nhân dân phải chịu đựng trong xã hội cũ. Ca dao thường than vãn về sự đè nén, gánh chịu:
“Thương thay thân phận con rùa
Lên đình đội hạc, xuống chùa đội bia”
Đặc biệt là tiếng than của phụ nữ, họ phải gánh chịu nhiều bất công từ chế độ nam quyền và áp đặt của lễ giáo phong kiến:
“Thân em như tấm lụa đào
Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai”
Loại thứ ba của ca dao là những lời châm biếm hài hước: Song song với truyện cười, ca dao hài hước châm biếm thường tập trung vào những nét đặc sắc của văn hóa dân gian Việt Nam, tạo ra tiếng cười giải trí và phê phán những thói hư tật xấu trong xã hội:
“Ăn thì chọn món ngon,
Làm thì chọn công việc có ích”
Ca dao phong phú không chỉ trong cách cấu trúc và xây dựng hình tượng mà còn ở sức hấp dẫn của âm điệu và lời ca dao giàu hình ảnh. Các biện pháp nghệ thuật như ẩn dụ, so sánh, nói quá,... tạo ra những hình ảnh gợi cảm, mở ra trường liên tưởng sâu xa. Sử dụng nghệ thuật so sánh và ví von đã tạo ra những hình ảnh truyền thống độc đáo trong ca dao: cây đa - bến nước - con đò; trúc - mai, con cò, chiếc cầu, ...Có thể nói ca dao sử dụng lời của nhân dân để truyền tải tâm tư, tình cảm của họ.
Chúng ta đã trải qua hành trình với ca dao Việt Nam, và ca dao vẫn mãi ghi sâu trong tâm hồn. Chúng ta cần biết trân trọng ca dao, yêu lời ru từ mẹ, hát những bài dân ca chân chất, ngọt ngào để thêm yêu quê hương, để góp phần làm cho văn hoá của dân tộc vươn ra khắp thế giới mà vẫn giữ được bản sắc Việt.
Giải nghĩa về thể thơ lục bát
Kho tàng thơ văn Việt Nam đa dạng và phong phú, từ nội dung đến thể loại. Khi nói về thi ca Việt Nam, không thể không nhắc đến những tác phẩm đã đi sâu vào tiềm thức mỗi người như Truyện Kiều của Nguyễn Du hay các câu ca dao mà bà, mẹ thường kể vào mỗi giấc ngủ.
Mỗi câu, mỗi chữ như mang một giai điệu riêng, và khi được kết hợp với thể lục bát, chúng hòa quyện thành một tấm, vô cùng nhịp nhàng và hoàn mỹ, nhưng vẫn gần gũi, mộc mạc, chân chất như chính là sự sống. Lục bát là phương tiện phổ biến để người Việt thể hiện tâm trạng, thăng hoa tâm hồn. Gắn bó với tiếng Việt, gắn liền với tinh thần Việt, thơ lục bát đã trở thành biểu tượng của dân tộc này. Mỗi khi nhắc đến văn hóa dân tộc, không thể không nhắc đến lục bát.
Dù có nhiều nhà nghiên cứu cố gắng tìm câu trả lời, câu hỏi này vẫn là một ẩn số. Văn hóa đặc trưng của người Việt là văn hóa của lúa nước, gắn bó với lao động nông nghiệp, vì vậy luôn tồn tại những cách sáng tạo để xua tan nỗi lao động. Họ thường làm việc cùng nhau trên ruộng, cùng nhau sáng tạo thi ca. Đơn giản chỉ là thể hiện những ước mơ giản dị:
“Người ta cày cấy, tôi cày mây
Nhìn trời, nhìn đất, nhìn mây
Nhìn mưa, nhìn nắng, nhìn ngày, nhìn đêm
Chờ chân cứng đá mềm
Chỉ khi trời yên biển lặng lòng mới yên bình”
Thơ lục bát bao gồm một cặp câu: câu lục (sáu tiếng) và câu bát (tám tiếng). Thông thường, một bài thơ lục bát thường bắt đầu bằng câu lục và kết thúc bằng câu bát. Số lượng câu trong một bài thơ lục bát không hề bị giới hạn như các bài thơ đường. Một bài thơ lục bát có thể bao gồm hai hoặc bốn câu như sau:
“Anh em từ xóm xa,
Cùng chung cha mẹ, cùng nhà cùng ngòi
Yêu thương như tay chân ngòi,
Anh em hòa thuận, vui vầy hòa quyện”
Hoặc có thể mở rộng thành hàng ngàn câu thơ, điển hình nhất là kiệt tác “Truyện Kiều” của Nguyễn Du, với 3253 câu (bao gồm 1627 câu lục và 1627 câu bát). Số lượng câu thơ phụ thuộc vào nội dung và ý đồ mà tác giả muốn truyền tải.
Quy tắc về vần giúp cho câu thơ trở nên hài hòa. Vần chính là cách mà các câu thơ kết nối với nhau, tạo nên “âm nhạc” cho bài thơ. Vần trong thơ lục bát có hai loại: vần đầu và vần chân. Hai dòng lục bát liên kết theo vần đầu có nghĩa là tiếng thứ sáu của câu lục vần với tiếng thứ sáu của câu bát. Nếu tiếp tục kéo dài, tiếng thứ tám của câu bát lại vần với tiếng thứ sáu của câu lục bên dưới. Đó là vần chân. Ví dụ:
“Trái tim hai người tương tư, (B-T-B)
Thúy Kiều là chị em với Thúy Vân. (B-T-B-B)
Mai cốt cách tuyết tinh thần, (B-T-B)
Mỗi người một vẻ, mười phân vẹn mười.” (B-T-B-B)
(Truyện Kiều – Nguyễn Du)
Quy tắc về vần của thơ lục bát khá linh hoạt, mạch lạc. Thường thì ở câu lục, các tiếng ở vị trí thứ hai, bốn, sáu là bằng-trắc-bằng, còn ở câu bát, các tiếng ở vị trí thứ hai, bốn, sáu, tám là bằng-trắc-bằng-bằng.
“Trăm năm trong cõi người ta, (B-T-B)
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau.” (B-T-B-B)
Nhịp trong thơ lục bát thường là nhịp chẵn, tạo ra âm điệu êm đềm, thong thả, phù hợp để hát ru, hát ngâm.
Ví dụ:
Nhớ em/ tiếng hát/ rừng chiều
Chày đá/ nện cối/ đều đều/ suối xa
(Việt Bắc – Tố Hữu )
Hoặc có thể thay đổi nhịp:
Anh đi để lại nụ cười
Trong lòng tôi vỡ… một bầu trời pha lẽ
(Lời thề cỏ may – Phạm Công Trứ)
Thơ lục bát từ xưa đến nay vẫn giữ vững vị thế quan trọng trong lòng người Việt. Chúng ta sử dụng lục bát để thể hiện tâm trạng, cảm xúc của mình trong cuộc sống, công việc, tình bạn, tình yêu,... Lục bát cũng là nơi chúng ta tìm đến để yên bình tâm hồn sau những khó khăn, gian khổ, là được trở về với tuổi thơ, với tiếng ru yêu thương của bà, của mẹ. Không có loại thơ nào khác mà mỗi câu mỗi chữ đều chứa đựng giai điệu, cảm xúc mà vẫn gần gũi, mộc mạc như lục bát.
Dù không biết từ bao giờ, nhưng lục bát là một phần quan trọng của tiếng Việt, tiếng Việt đã nuôi dưỡng và phát triển lục bát, đồng thời, lục bát cũng làm cho tiếng Việt trở nên phong phú, đẹp hơn.
Thuyết minh về truyện ngắn
Truyện ngắn là một thể loại văn học nằm trong dạng tự sự nhỏ. Đây là một trong những thể loại văn học rất quan trọng.
Truyện ngắn khác với truyện dài ở điểm nói về một mảnh cuộc sống, một sự kiện, một hành động, hoặc một trạng thái cụ thể trong cuộc sống của nhân vật, thể hiện một khía cạnh của tính cách hoặc một mặt của đời sống xã hội. Trong truyện ngắn “Tôi đi học” của Thanh Tịnh, câu chuyện kể về sự kiện quan trọng trong cuộc đời của một đứa trẻ khi em chuyển từ thế giới gia đình sang thế giới nhà trường. Trong “Chiếc lá cuối cùng” của O’ Hen-ri, chúng ta thấy Giôn-xi đang mắc bệnh nặng, và cụ Bơ-men tạo ra một chiếc lá cuối cùng trong một đêm mưa tuyết dữ dội để cứu sống một cô gái, trước khi cụ ra đi sau khi hoàn thành công việc ấy. Còn trong “Lão Hạc” của Nam Cao, chúng ta được biết về những ngày cuối cùng của một nông dân già nghèo, đơn độc, nhưng trước khi qua đời, ông lo lắng cho đứa con trước khi con trở về. Truyện ngắn thường có ít nhân vật và sự kiện như trong ba truyện ngắn trên.
Cốt truyện của truyện ngắn thường diễn ra trong một không gian, thời gian hạn chế. Nó không nắm bắt toàn bộ quá trình diễn biến một cuộc đời mà chỉ chọn lọc những khoảnh khắc, những đoạn ngắn của cuộc sống để thể hiện. 'Tôi đi học' chỉ tập trung vào buổi tụu trường đầu tiên, sân trường, và lớp học; Lão Hạc chỉ là giai đoạn cuối đời từ nhà của ông sang nhà thầy giáo; Chiếc lá cuối cùng được tường thuật trong những ngày Giôn-xi ốm nằm trong căn phòng nhỏ với chiếc cửa sổ nhìn ra cây thường xuân.
Kết cấu của truyện ngắn thường thể hiện sự so sánh, tương phản để làm nổi bật chủ đề, như sự tương phản giữa tình mẫu tử và những cảm xúc mới mẻ về trường học, giáo viên, bạn bè trong tâm trạng của trẻ con ('Tôi đi học'); giữa cuộc sống nghèo khó và cái chết đau đớn, cùng với tình yêu và lo lắng cho đứa con của Lão Hạc ('Lão Hạc'), giữa việc trở lại với cuộc sống của Giôn-xi và việc ra đi của cụ Bơ-men, giữa chiếc lá thường xuân đã rụng và chiếc lá cuối cùng vẫn còn mãi mãi trên tường ('Chiếc lá cuối cùng').
Những điểm đặc biệt này làm cho truyện ngắn thường có dung lượng ngắn. Tuy nhiên, điều này không ngăn cản truyện ngắn khám phá những vấn đề lớn của cuộc đời như Lão Hạc hay Chiếc lá cuối cùng. Đọc các tác phẩm của các văn hào trong thể loại này, ta càng hiểu rõ điều này.
Do đó, truyện ngắn là một dạng văn học hiện đại. Ngày nay, nó đã và đang góp phần quan trọng vào thành tựu của văn học Việt Nam trong thế kỷ XX, XXI và tương lai.
Thuyết minh về thể thơ Thất ngôn bát cú Đường luật
Thể thơ Đường luật bắt nguồn từ Trung Quốc và đã phát triển mạnh mẽ tại quê hương và lan rộng sang các vùng lân cận, trong đó có Việt Nam. Thể thơ này tuân theo một hệ thống quy tắc phức tạp, gồm năm yếu tố: Luật, niêm, vần, đối, và bố cục. Trong các dạng thơ Đường luật, thất ngôn bát cú được xem là một chuẩn mực, là hình thức thơ tiêu biểu trong thơ ca trung đại.
Thơ Đường luật có xuất xứ từ thời đại Đường (618 - 907) ở Trung Quốc. Thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật gồm tám câu, mỗi câu bảy chữ. Các chữ cuối của các câu 1, 2, 4, 6, 8 đồng vần với nhau. Trong bài 'Qua đèo Ngang' của Bà huyện Thanh Quan, việc này được thể hiện rõ ràng:
“Bước tới đèo Ngang bóng xế tà
Cỏ cây chen lá, đá chen hoa
Lom khom dưới núi, tiều vài chú
Lác đác bên sông, chợ mấy nhà
Nhớ nước đau lòng con quốc quốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia
Dừng chân đứng lại, trời non nước
Một mảnh tình riêng, ta với ta”
Các từ cuối câu 1, 2, 4, 6, 8 đồng vần với nhau là: tà, hoa, nhà, gia, ta. Điều này giúp bài thơ có sự nhịp nhàng, tránh khô cứng của một thể thơ tuân theo niêm luật chặt chẽ. Có sự đối ngẫu giữa câu 3 và câu 4, câu 5 và câu 6 (tức bốn câu ở giữa), thể hiện sự tương phản và đồng đều trong cách sử dụng từ, như trong bài 'Qua Đèo Ngang':
“Lom khom dưới núi, tiều vài chú
Lác đác bên sông, chợ mấy nhà
Nhớ nước đau lòng con quốc quốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia”
“Lom khom” so sánh với “lác đác”, “dưới núi” so sánh với “bên sông”, “nhớ nước” so sánh với “thương nhà”…. Các phép đối rất rõ ràng và cân đối, cả về từ lẫn âm. Ví dụ trong bài thơ “Thương vợ” của Tú Xương:
“Lặn lội thân cò khi quãng vắng
Eo sèo mặt nước buổi đò đông
Một duyên hai nợ âu đành phận
Năm nắng mười mưa dám quản công”
Sự so sánh giữa các câu rất cân xứng và rõ ràng như “lặn lội” so sánh với “eo sèo”, “quãng vắng” so sánh với “buổi đò đông”… Trong thơ Đường, nếu câu 3 không so sánh với câu 4, câu 5 không so sánh với câu 6 thì được gọi là “thất đối”.
Ngoài ra, thể thơ này còn có luật bằng trắc rõ ràng, đặc biệt là nguyên tắc niêm. Các câu thơ niêm với nhau khi chữ thứ hai của hai câu cùng tuân theo một luật, hoặc cùng là bằng, hoặc cùng là trắc. Thường một bài thơ thất ngôn bát cú có niêm: câu 1 niêm với câu 8; câu 2 niêm với câu 3; câu 4 niêm với câu 5; câu 6 niêm với câu 7. Vần được sử dụng để tạo âm điệu trong thơ, thường được dùng tại cuối các câu 1, 2, 4, 6 và 8. Các câu này được gọi là “vần với nhau”. Các chữ có vần giống nhau hoàn toàn được gọi là “vần chính”, còn các chữ có vần gần giống nhau được gọi là “vần thông”. Hầu hết thơ Đường dùng vần thanh bằng, nhưng cũng có các ngoại lệ. Về bố cục, một bài thơ thất ngôn bát cú gồm 4 phần: Đề, thực, luận, kết. Hai câu đầu tiên là hai câu mở đầu, hai câu thực là hai câu miêu tả, hai câu luận là hai câu suy luận, và hai câu kết khái quát lại sự việc. Thể thơ này đã được sử dụng trong việc thi tuyển nhân tài cho đất nước. Nguyên gốc từ Trung Quốc, thể thơ này đã được Việt Nam tiếp nhận và sử dụng rộng rãi, với nhiều bài thơ nổi tiếng.
Đây là một thể thơ phổ biến trong văn học Trung đại Việt Nam. Nhiều bài thơ nổi tiếng được sáng tác bằng thể loại này, đóng góp vào việc thể hiện tư tưởng và tình cảm của các nhà thơ.
.....