TOP 3 mẫu giới thiệu về Xuân Diệu dưới đây được viết rất hay với phong cách rõ ràng, dễ hiểu và có thể tự học để mở rộng, nâng cao kiến thức, giúp học sinh làm tốt môn Ngữ văn và chuẩn bị tốt hơn cho việc học. Ngoài ra, bạn cũng có thể xem thêm các bài thuyết minh về tác giả văn học và nhiều bài văn hay khác tại chuyên mục Văn 10 - Nền tảng tri thức..
Bản tóm tắt giới thiệu về Xuân Diệu
1. Khai mạc
Tổng quan về đối tượng thuyết minh (Ví dụ: Tác giả Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Chính Hữu,...)
2. Phần chính
*Tóm tắt vài điểm quan trọng về cuộc đời:
- Tên và thời gian sinh (đến năm mất)
- Quê hương
- Biệt danh (Nếu có)
- Giới thiệu về các sự kiện quan trọng trong cuộc đời của tác giả (Chú ý: Cần chỉ ra những sự kiện có ý nghĩa đối với cuộc sống và sự nghiệp sáng tác của tác giả)
*Sự nghiệp văn học:
- Bắt đầu sáng tác từ thời điểm nào?
- Phong cách và đặc điểm sáng tác
- Các tác phẩm đáng chú ý (Liệt kê một số tác phẩm đáng chú ý và tóm tắt ngắn gọn nội dung của mỗi tác phẩm)
*Vai trò, vị thế của tác giả trong văn học:
- Đóng góp quan trọng cho sự phát triển văn học đất nước
- Các tác phẩm mang tính giá trị cao về nội dung, nghệ thuật, và thẩm mỹ,...
3. Tổng kết
Đánh giá tổng quan về tác giả văn học
Giới thiệu về Xuân Diệu - Mẫu 1
Xuân Diệu được biết đến là một nhà văn vĩ đại của văn học Việt Nam, một nhà thơ tài năng đã có những đóng góp to lớn vào quá trình hiện đại hóa thơ ca Việt Nam. Ông là một con người toàn tâm, toàn trí, toàn tấm lòng, nhiệt thành dành cuộc sống để tạo ra những tác phẩm thơ, đua đòi với thời gian để chiếm giữ từng khoảnh khắc của cuộc đời.
Khi nhắc đến Xuân Diệu (1916-1985), trước hết cần phải nói về cuộc đời của nhà thơ. Xuân Diệu là bút danh, tên thật là Ngô Xuân Diệu. Cha ông là Ngô Xuân Thọ, quê ở xã Trảo Nha, hiện nay là thị trấn Nghèn, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh. Cha ông là một học giả về Hán văn, từng làm giáo sư tại Bình Định, kết hôn với Nguyễn Thị Hiệp và sinh Xuân Diệu tại Gò Bồi, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định. Xuân Diệu ở quê mẹ khi còn nhỏ, sau đó sống với cha khi lên mười tuổi.
Xuân Diệu trải qua quá trình học tập khắc nghiệt. Ông học chữ Nho và chữ Quốc ngữ từ cha, sau đó theo học tại trường Bưởi (Hà Nội) và trường Khải Định (Huế).
Năm 1940, Xuân Diệu đậu cử tham gia Thương chính làm việc tại Thương chính Mỹ Tho (nay thuộc tỉnh Tiền Giang). Sau 4 năm công tác, ông từ bỏ công việc, chuyển đến Hà Nội sống bằng nghề viết văn. Xuân Diệu là người thứ hai sau Tản Đà, một con người dám hi sinh tất cả cho nghề văn chương cao quý.
Ngày 19 tháng 8 năm 1945, Cách mạng tháng Tám thành công, Xuân Diệu tích cực tham gia hoạt động văn nghệ phục vụ hai cuộc kháng chiến. Năm 1948, Xuân Diệu được bầu làm Ủy viên Ban Chấp hành Hội Văn nghệ Việt Nam. Sau đó, ông là Ủy viên Ban Chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam các khóa 1, 2, 3 (1957-1985). Ông được Viện Hàn lâm nghệ thuật nước Cộng hòa dân chủ Đức bầu làm Viện sĩ thông tấn (1983).
Xuân Diệu đã được Nhà nước trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật (đợt I – năm 1996).
Sự thành công của Xuân Diệu phụ thuộc vào nhiều yếu tố, nhưng không thể không nhắc đến ảnh hưởng lớn của cá nhân nhà thơ đối với sự phát triển văn học của ông.
Xuân Diệu là một con người có tinh thần lao động nghệ thuật nồng nhiệt và kiên trì, từ thuở nhỏ đã có “cha bên ngoài, mẹ ở bên trong – Người cha nghệ nhân đeo khăn gói đỏ”. Xuân Diệu học hỏi từ cha – người cha nghệ nhân truyền dạy tinh thần làm việc chăm chỉ, kiên nhẫn trong học tập, phát triển tài năng và nỗ lực sáng tạo. Đối với Xuân Diệu, học hành, rèn luyện và sáng tạo không chỉ là quyết tâm kiên cường, mà còn là một phần của cuộc sống, một niềm đam mê vô cùng lớn.
Thế Lữ đã từng nhận xét về Xuân Diệu: “Một tâm hồn đằm thắm và rất dễ cảm xúc”. Xuân Diệu sinh ra và lớn lên ở quê mẹ, trải qua cuộc sống gian khó và phải xa mẹ từ nhỏ. Thơ của ông luôn thể hiện sự khát khao giao cảm sâu sắc và mãnh liệt với cuộc đời.
Về quá trình đào tạo: Xuân Diệu học hỏi văn hóa phương Đông từ cha mình, một nhà nho, và cũng tiếp nhận ảnh hưởng của văn hóa phương Tây, đặc biệt là Pháp. Ông kết hợp hai yếu tố cổ điển và hiện đại, Đông và Tây trong tư tưởng và tình cảm thẩm mỹ.
Xuân Diệu là một tài năng đa dạng: làm thơ, viết văn, nghiên cứu phê bình văn học, dịch thuật. Ông được biết đến là một nhà thơ xuất sắc với mười lăm tập thơ. Làm thơ và viết văn không chỉ là cách thể hiện tài năng của ông mà còn là cách ông giao cảm với đời.
Với hơn một nửa thế kỷ làm việc nghệ thuật, Xuân Diệu đã để lại cho thế hệ sau một di sản văn học xuất sắc. Ông là một tài năng đa phương diện, nhưng trên hết, ông là một nhà thơ, một biểu tượng của thơ ca hiện đại Việt Nam. Sự nghiệp sáng tác thơ của ông chia thành hai giai đoạn: Trước và sau Cách mạng tháng Tám 1945.
Trước Cách mạng tháng Tám 1945, Xuân Diệu được coi là nhà thơ lãng mạn tiêu biểu của phong trào. Thơ mới của ông với hai tập Thơ thơ (1938) và Gửi hương cho gió (1945) thể hiện niềm đam mê giao cảm sâu sắc với cuộc sống và giá trị của bản thân trước thế giới.
Nhà thơ thể hiện sự khát khao giao cảm nồng cháy, say mê cuộc sống, bắt nguồn từ quan niệm tích cực về sự hiện hữu của bản thân và mong muốn sống đầy sáng tạo.
Xuân Diệu không muốn tan biến bản thân vào cuộc sống không rõ ràng mà tự khẳng định là một đỉnh Hy Mã Lạp sơn, “là một, là duy nhất, là hàng đầu”:
Thà sống lên một phút rực rỡ sau đó tắt
Còn hơn sống buồn rầu suốt trăm năm
Khác biệt với những nhà thơ khác như Thế Lữ hay Đoàn Văn Cừ, Xuân Diệu hòa nhập bản thân vào cuộc sống đời thường, yêu thích và thưởng thức cuộc sống hết mình.
Xuân Diệu là nhà thơ của mùa xuân, tình yêu và tuổi trẻ. Thơ của ông luôn thể hiện lòng yêu cuộc sống, ham muốn sống đầy nhiệt huyết, và mong muốn trải nghiệm những giá trị tươi đẹp của cuộc sống. Tinh thần sáng tạo của Xuân Diệu được giải phóng từ những niềm vui đời thường, nhìn nhận thế giới với ánh mắt trẻ trung, đầy màu sắc. Thiên nhiên và con người mang lại sự trẻ trung và huyền diệu cho một thế giới đẹp như mùa xuân:
Bướm bay tuần tháng, mật ngọt rót đầy
Hoa rì rào trong đồng, xanh tươi bừng nở
Lá phơi phới trên cành, nhè nhẹ lay đưa
Yến tình mơ mộng, đắm chìm vào khúc hát si.
(Hối hả)
Thơ trung đại thường liên quan đến tình yêu và tinh thần. Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương đã diễn tả tình yêu về cả tinh thần và thể xác, nhưng chỉ có Xuân Diệu, với khát vọng về tình yêu, thể hiện nó một cách sâu sắc và mãnh liệt nhất, đem đến ý tưởng mới và mạnh mẽ cho thời đại của mình.
Trong thơ của Xuân Diệu, ông nhìn nhận thời gian từ một góc nhìn mới. Ông nhận thức được sự trôi chảy của thời gian, và luôn lo sợ và ám ảnh về điều đó. Ông muốn đấu tranh với thời gian để giữ lấy sự sống, tận hưởng từng khoảnh khắc của cuộc đời, thể hiện niềm đam mê sống mạnh mẽ.
Bên cạnh niềm đam mê cuộc sống, thơ của Xuân Diệu cũng thể hiện nỗi buồn, hoài nghi, và cô đơn. Là một nhà thơ lãng mạn, ông luôn tìm kiếm sự hoàn mỹ và sống trong thế giới của những ảo mộng. Khi gặp phải xã hội giả dối và sống trong nước mất chủ quyền, ông cảm thấy chán nản, hoài nghi và cô đơn, “buồn thẹn trong những niềm vui và hạnh phúc”:
Con nai lạc bước, lưới mơ màng vây quanh
Trong bóng tối, không biết lối đi nào.
Yêu cuộc sống, hết lòng với đời nhưng mang theo nỗi buồn, hoài nghi, cô đơn. Hai trạng thái này, dường như trái ngược nhau, lại tồn tại đồng thời trong tâm hồn của một nhà thơ khao khát giao cảm mạnh mẽ với cuộc sống, của một cái tôi tự ý thức về bản thân và giá trị của mình trước thế giới.
Thơ của Xuân Diệu trước Cách mạng tháng Tám 1945 đã mang đến sự cách tân nghệ thuật mới mẻ và táo bạo. Ông mang đến một loại thơ mới: Thơ trước kia thường tạo ra không gian trống rỗng, cô đơn, thiếu vắng con người, nhưng với Xuân Diệu, ngay cả khi có con người và cảnh vật ở bên cạnh, ông vẫn cảm thấy cô đơn:
Mặc tin nhau mãi, một mình mỗi người
Em là em, anh là anh mãi thôi
(Vắng bóng)
Tình yêu trong thơ của Xuân Diệu không mờ nhạt, không như những ước mơ xa xôi trong thơ xưa mà hiện diện với ý nghĩa đầy đủ, toàn vẹn nhất, là sự kết hợp hoàn hảo giữa tinh thần và thể chất.
Hình ảnh mới lạ, táo bạo, đậm đà cảm xúc:
Trăng buồn u ám mãi theo cùng thi hào
Nâng hai tay trắng như sắc hoa phô diễn.
Thơ của Xuân Diệu với những hình ảnh đầy tính cảm giác, được trải nghiệm qua tất cả các giác quan:
Con gió nhẹ nhàng thì thầm giữa những lá xanh biếc
tuyệt vời:
Hương thơm phảng phất, làm cho cơn gió cũng trở nên dịu dàng
Dùng từ ngữ mới mẻ, táo bạo, mang phong cách Tây:
Ngất ngây trước vẻ đẹp của một bông hoa rơi khỏi cành
tuyệt vời:
Tâm trí anh đã thuộc về em từ lâu rồi
Kiểu ngắt nhịp mới, mới lạ (4/2/1):
Âm nhạc tràn ngập như làn nước lạnh trên dòng sông
Câu thơ của Xuân Diệu đậm chất đối thoại, sử dụng ngôn từ phổ biến, đầy tính luân lý:
Yêu là như chết một ít trong lòng
Vì hiếm khi yêu mà được đáp lại tình yêu.
Có nhiều từ ngữ phức tạp, câu hỏi, cảm thán. Dòng điệu sống động, cuồng nhiệt, sâu sắc.
Sau Cách mạng tháng Tám 1945, Xuân Diệu trở thành một nhà thơ cách mạng, hoà mình vào cuộc sống mới, nhiệt tình phục vụ cách mạng. Thơ trỗi dậy với nhiều tập thơ lớn: Riêng chung (1960), Mũi Cà Mau – Cầm tay (1962), Một khối hồng (1964), Tôi giàu đôi mắt (1970), Thanh ca (1982).
Nếu trước đó, Xuân Diệu mang trong lòng nỗi cô đơn hoài nghi trước cuộc đời thì sau cách mạng, nhà thơ đã nhanh chóng hòa mình vào, tìm được sự tri âm. Cảm hứng thơ vì thế trở nên tươi vui và ấm áp.
Trước khi lệ rơi, ta trách móc trời đất
Nhưng giờ, trong lệ, ta cảm thấy niềm vui của cuộc sống
Tình yêu hiện nay mang tính chung thủy, đồng lòng, yêu thương và ấm áp. Chủ đề đa dạng hơn, phong phú hơn. Ngòi bút hướng về Đảng, nhân dân, cuộc sống lao động mới.
Cảm hứng mới, đề tài mới, nội dung mới đòi hỏi cách thể hiện mới. Bút của Xuân Diệu không thể đi theo lối cũ. Ông học hỏi lời nói của nhân dân, ngôn ngữ giản dị, gần gũi với cuộc sống, mặc dù đôi khi còn vụng về, dễ dãi.
Anh không đủ xứng là biển xanh
Nhưng anh muốn em là bờ cát trắng.
Giọng điệu thơ phong phú, không chỉ là giọng trữ tình mà còn mang âm điệu hùng cổ của sử ca như chong chóng ca Ngọn quốc kỳ hay mang hơi thở triết lý như trong Lệ:
Máu của linh hồn là nước mắt
Còn rơi không biết đến bao giờ
Giọng đối đáp giao duyên như trong bài Hỏi:
Ai gây ra sự hiểu lầm này
Vì tôi ngượng ngùng hay vì em?
Trăng còn chờ gió không?
Hay trăng đã tròn trên cao?
Chúng ta còn thấy ở thơ Xuân Diệu sau Cách mạng giọng thơ trào phúng, trữ tình, và đôi khi kích động.
Xuân Diệu không chỉ viết thơ mà còn sáng tác văn xuôi, nghiên cứu phê bình văn học và dịch thuật. Phấn thông vàng (1939) và Trường ca (1945) là hai tập văn xuôi xuất sắc của ông. Xuân Diệu còn để lại những tập tiểu luận, phê bình có giá trị: Tiếng thơ, Phê bình giới thiệu thơ, Dao có mài mới sắc…
Xuân Diệu là một nhà thơ lớn trong văn học hiện đại, là một người nghệ sĩ lớn của dân tộc. Bài học mà Xuân Diệu để lại cho thế hệ sau là tinh thần lao động nghệ thuật cần cù, niềm tin yêu đối với con người, và ý thức chân thành đối với văn chương. Dù đã hơn nửa thế kỷ trôi qua, thơ của Xuân Diệu vẫn thu hút và quyến rũ các độc giả qua các thế hệ.
Thuyết minh về nhà thơ Xuân Diệu - Mẫu 2
Cuộc đời của những nghệ sĩ luôn có những thăng trầm, những lúc được yêu thương và những lúc bị ghét bỏ. Nhưng công lao của họ với nghệ thuật sẽ sống mãi với thời gian. Người ta sẽ luôn nhớ đến những nghệ sĩ đó để tôn trọng và biết ơn. Chúng ta không thể không nhớ đến Xuân Diệu như một nhà văn vĩ đại của dân tộc, người đã dẫn dắt thơ ca qua những thăng trầm!
Xuân Diệu sinh năm 1916 và qua đời năm 1985, tên thật của ông là Ngô Xuân Diệu, ông cũng có sử dụng bút danh là Trảo Nha, là tên của làng quê ông. Người cha là người Hà Tĩnh nhưng ông lớn lên tại Quy Nhơn. Do đó, trong tâm hồn ông, có sự kết hợp của sự cần cù của dân Hà Tĩnh và nắng gió của biển Quy Nhơn. Quê hương đã tạo nên cái hồn của thơ Xuân Diệu. Ông là con của một gia đình nho gia, được giáo dục trong môi trường văn hóa Pháp. Vì thế, thơ của ông vừa giữ được bản sắc cổ điển của Việt Nam, vừa mang hơi thở của văn hóa phương Tây. Điều này đã giúp Xuân Diệu trở thành “nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ Mới”. Ông cũng đã thừa nhận điều này:
Nhớ Rimbaud và Verlaine
Hai thi sĩ say men vị chát
Xuân Diệu nổi bật nhất trong thời kỳ từ 30 đến 45 của thế kỷ XX. Đó là thời điểm mà thơ trở nên sáng tạo hơn, cá nhân hóa được ưu ái hơn. Với tập thơ “Thơ thơ” và “Gửi hương cho gió”, ông trở thành một nhà thơ trữ tình lớn, được Hoài Thanh gọi là “Nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ Mới”. Tham gia vào Tự lực văn đoàn, Xuân Diệu trở thành một nhà lãnh đạo trong phong trào thơ Mới. Sự nghiệp của ông còn được ghi nhận qua truyện ngắn “Phấn thông vàng”, tác phẩm “Trường ca” và nhiều phê bình văn học lý luận khác. Xuân Diệu đã để lại một di sản văn học đáng kinh ngạc và ông tự tin giao phó cuộc đời mình cho dòng chảy vĩnh cửu của thời gian. Khi cách mạng nổ ra, ông quay về tham gia vào cuộc kháng chiến, giữ nhiều vị trí quan trọng. Thành tích của ông được vinh danh với giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật, là một sự công nhận cho tài năng của mình.
Trần Đăng Khoa mô tả về thơ Xuân Diệu bằng ba từ “tài năng, tinh tế, thanh lịch”. Thơ của ông chịu ảnh hưởng sâu sắc từ văn học phương Tây, đặc biệt là Pháp, từ nội dung đến hình thức thơ. Điều này làm cho Xuân Diệu luôn có những khám phá mới trong thơ của mình. Ông thường nhìn nhận thời gian như một tuyến đường một chiều, không thể quay lại. Do đó, ông luôn tiếc nuối thời gian, tuổi trẻ đã qua. Một thi sĩ đứng giữa mùa xuân nhưng lòng lại ngậm ngùi:
Xuân đến là xuân đi
Xuân non sớm trở thành xuân già
Không chỉ là thời gian, ông tiếc nuối hơn cả tuổi trẻ. Đối với ông, tuổi trẻ là thời kỳ đẹp nhất, là thời kỳ đáng sống nhất của con người. Tuổi trẻ qua đi cũng có nghĩa là đời người cũng đã dần dần đi qua:
Nói chi về sự quay vòng của xuân
Khi tuổi trẻ không thể tái sinh
Quan điểm này chịu ảnh hưởng sâu sắc từ triết lý phương Tây: “Thời gian là kẻ ăn cắp cuộc đời”.
Xuân Diệu không tránh né hiện thực như các nhà thơ đương thời, ông yêu quý đất đai, tìm thấy vẻ đẹp trần thế trong đó. Ông luôn mong muốn sống để trải nghiệm vẻ đẹp của cuộc sống:
Anh ôm lấy bàn tay của mình, hình như con rắn
Hay dây da, vòng quanh cánh tay anh
Anh không muốn ra đi, muốn mãi ở trong vườn trần
Để chân anh chui vào đất, hút thêm mùi xuân
Chỉ có thể tại Xuân Diệu, ta mới có thể chiêm ngưỡng một cặp mắt đầy mê hoặc nhìn cuộc sống với sắc xanh non biếc. Ông không chỉ yêu đời, mà còn ao ước tìm thấy tình yêu và nhận lại sự đáp trả. Không sai khi người ta gọi ông là “vị vua của thơ tình”:
Yêu, tựa như chết trong lòng một chút
Bởi bao giờ yêu mà chắc chắn được yêu?
Để nói về sự độc đáo nghệ thuật trong thơ của Xuân Diệu, không thể không nhắc đến sự sáng tạo trong lựa chọn từ ngữ của ông. Bị ảnh hưởng từ văn hóa phương Tây, ông thường sử dụng những từ ngữ mới lạ như “Những dòng run rẩy lay động nhành lá”. Thơ của ông thường là sự giao hòa mạnh mẽ giữa các giác quan “Ôi xuân hồng, ta muốn nhấp nhô vào em”. Xuân Diệu thật sự đã mang đến cho thơ Việt Nam một làn gió mới mẻ, sôi động và tươi sáng hơn.
Ngoài thơ, Xuân Diệu còn để lại dấu ấn trong truyện ngắn và phê bình văn học. Truyện ngắn “Phấn thông vàng” của ông là biểu tượng cho tài năng viết truyện ngắn tinh tế và sắc sảo của mình. Ông cũng nổi tiếng với các tác phẩm như “Ba đại thi hào dân tộc”, “Tiếng thơ”, “Dao có mài mới sắc”… Ông từng khẳng định: “Người văn sĩ tồn tại trong tác phẩm. Nếu không có tác phẩm, người văn sĩ ấy có thể coi là đã qua đời”. Và thực sự, Xuân Diệu đã vượt qua thời gian và không gian thông qua tác phẩm văn chương của mình.
Thời gian sẽ trôi đi, nhưng mỗi người vẫn sẽ mang trong lòng một phần của Xuân Diệu. Thi sĩ đó đã làm say đắm trái tim của người đọc đến mức ngất ngây như vậy!
Thuyết minh về nhà thơ Xuân Diệu - Mẫu 3
Tác phẩm thơ của Xuân Diệu đã góp phần quan trọng vào sự phát triển của văn học Việt Nam, tạo ra một làn sóng mới, thể hiện quan điểm sống sôi động và các kỹ thuật sáng tạo trong nghệ thuật.
Nhà thơ lãng mạn Xuân Diệu sinh ngày 2-2-1916 tại tỉnh Bình Định. Ông sinh sống chủ yếu ở tỉnh Hà Tĩnh. Xuân Diệu được xếp hạng thứ 79876 trên thế giới và thứ 3 trong danh sách những nhà thơ lãng mạn nổi tiếng.
Sau khi tốt nghiệp đại học, ông làm giáo viên và viên chức tại Mỹ Tho (nay là Tiền Giang), trước khi chuyển đến Hà Nội để theo đuổi sự nghiệp văn chương. Năm 1943, ông nhận bằng cử nhân Luật và trở về làm tham tá thương chánh ở Mỹ Tho.
Năm 1944, Xuân Diệu tham gia vào phong trào Việt Minh và gia nhập Đảng Dân chủ Việt Nam, sau đó chuyển sang Đảng Cộng sản. Sau Cách mạng Tháng Tám, ông tham gia vào Hội văn hóa cứu quốc, giữ chức thư ký của tạp chí Tiền phong. Sau đó, ông làm việc trong Hội văn nghệ Việt Nam và làm thư ký tòa soạn của tạp chí Văn nghệ ở Việt Bắc.
Xuân Diệu tham gia vào ban chấp hành và là ủy viên thường vụ của Hội Nhà văn Việt Nam trong nhiều năm.
Xuân Diệu, nhà thơ lãng mạn, được biết đến với danh xưng 'Ông hoàng của thơ tình'. Ông là một trong những người tiên phong trong lĩnh vực thơ ca, với hai giai đoạn quan trọng trước và sau cách mạng Tháng Tám. Trước cách mạng, ông là một nhà thơ lãng mạn, tác phẩm chính của ông bao gồm tập thơ 'Thơ thơ' (1938) và 'Gửi hương cho gió' (1945). Trong thời kỳ này, thơ của Xuân Diệu thể hiện sự say mê với cuộc sống, khát khao tương tác trực tiếp với thế giới xung quanh, và niềm vội vã, mãnh liệt trong cuộc sống. Nỗi cô đơn của cái tôi giữa biển người và không gian vô tận được thể hiện rõ trong những tác phẩm như 'Lời kỹ nữ'. Ông cũng thể hiện nỗi lo âu về thời gian và sự vội vã của cuộc sống. Sau cách mạng, thơ của Xuân Diệu mở ra một khía cạnh mới, với sự chú trọng vào lẽ sống chung của mọi người.
Sau cách mạng Tháng Tám, thơ của Xuân Diệu đã tiến xa hơn vào một tầm cao mới của nghệ thuật, khi ông chuyển từ việc tập trung vào bản thân cá nhân sang tư duy về lợi ích chung của cộng đồng (P.Eluya). Ông đã tạo ra những tác phẩm sáng tạo và hăng say trong việc tạo dựng tình thần cách mạng. Ông bày tỏ niềm vui và sự hân hoan trước cuộc sống mới, lớn lao hơn của cách mạng thông qua các tác phẩm như 'Ngọn quốc kỳ' (1945) và 'Hội nghị non sông' (1946).
Với sự thay đổi của đất nước, tâm trạng và thơ của Xuân Diệu cũng trải qua nhiều biến động.
Từ quan điểm cá nhân đến ý thức của một công dân và nghệ sĩ yêu nước, Xuân Diệu đã có nhiều nguồn cảm hứng mới cho sự sáng tác của mình. Ông tập trung vào việc viết về Đảng, về Bác Hồ, về Tổ quốc Việt Nam và quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội miền Bắc cũng như công cuộc thống nhất đất nước. Các tác phẩm tiêu biểu bao gồm tập 'Riêng chung' (1960), 'Hai đợt sóng' (1967), 'Hồn tôi đôi cánh' (1976)...
Từ những năm 1960 trở đi, Xuân Diệu tiếp tục viết thơ về tình yêu. Thơ tình của ông không chỉ giới hạn ở những cảm xúc cá nhân mà còn mở rộng ra những nguồn cảm hứng mới. Trước cách mạng, tình yêu thường được thể hiện qua những cuộc tình đầy cô đơn và xa cách. Tuy nhiên, sau cách mạng, tình yêu của Xuân Diệu đã trở nên rộng lớn và hòa quyện với tình yêu dành cho tổ quốc. Thơ của ông thường nhấn mạnh vào tình cảm lứa đôi, sự hạnh phúc và ấm áp, thể hiện sự gắn kết và hòa hợp (như trong 'Dấu nằm', 'Biển', 'Giọng nói', 'Đứng chờ em').
Xuân Diệu được biết đến là một nhà văn tài năng không chỉ trong lĩnh vực thơ mà còn trong văn xuôi. Ông đã sáng tác nhiều tác phẩm nổi tiếng như 'Trường ca' (1939) và 'Phấn thông vàng' (1945). Cả hai tác phẩm này đều mang phong cách lãng mạn nhưng đôi khi cũng chứa đựng những tư duy hiện thực (như trong 'Cái hỏa lò', 'Tỏa nhị Kiều').
Xuân Diệu cũng là một nhà phê bình văn học và dịch giả thơ nước ngoài tài năng. Ông đã viết nhiều tác phẩm đáng chú ý như 'Ký sự thăm nước Hung', 'Triều lên', 'Các nhà thơ cổ điển Việt Nam', 'Dao có mài mới sắc'.
Xuân Diệu đã có đóng góp lớn trong sự phát triển của văn học Việt Nam. Vũ Ngọc Phan đã nhận xét: 'Xuân Diệu là người mang nhiều cái mới nhất cho thơ ca hiện đại Việt Nam'. Sự đóng góp của ông đã lan tỏa trong nhiều thể loại và giai đoạn lịch sử của dân tộc.
Năm 1996, Xuân Diệu đã được vinh danh bằng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật. Tên của ông còn được đặt cho nhiều tuyến đường và trường học ở nhiều thành phố lớn của Việt Nam để tưởng nhớ.
Xuân Diệu qua đời vào ngày 18 tháng 12 năm 1985. Hiện nay, nhà tưởng niệm và nhà thờ của ông đã được xây dựng tại làng Trảo Nha, thị trấn Nghèn, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh để tưởng nhớ về ông.