Thuyết minh về nhân vật lịch sử mà em hâm mộ gồm 7 mẫu xuất sắc, đặc biệt nhất, đưa thêm thông tin hữu ích về các anh hùng, nhân vật lịch sử quan trọng như Lý Thường Kiệt, Chủ tịch Hồ Chí Minh, Trần Quốc Tuấn, Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Võ Thị Sáu.
Chúng ta có thể sống trong hòa bình như ngày hôm nay là nhờ công lao của những vị anh hùng, những nhân vật lịch sử quan trọng, họ đã hy sinh hết mình vì sự tự do. Mời các em theo dõi bài viết dưới đây của Mytour để nâng cao hiểu biết môn Văn 9:
Thuyết minh về Nguyễn Du
Trong triều đại Lý, có lẽ Lý Thường Kiệt là một trong những tên nổi tiếng nhất khi ông hỗ trợ Vua chống lại quân Tống và giữ vững danh tiếng. Tuy nhiên, ít ai biết rằng ông không phải là một thành viên của dòng dõi hoàng tộc Lý và càng hiếm hoi người biết rằng ông xuất thân từ quan thái giám.
Lý Thường Kiệt, ban đầu tên là Ngô Tuấn, là con trai của tướng Ngô An Ngữ với phu nhân thuộc họ Hàn. Ông sinh năm 1019 dưới triều vua Lý Thái Tổ. Theo truyền thuyết, từ khi mới sinh, số mệnh của Lý Thường Kiệt đã được tiên đoán sẽ có công danh cao quý nhưng lại đau đớn vì không có con để kế thừa.
Lý Thường Kiệt nổi tiếng như một ngôi sao sáng, trở thành một nhân vật lớn trong thời kỳ nhà Lý. Sự vĩ đại nhất trong cuộc đời ông, cũng là trong lịch sử nhà Lý, chính là cuộc chiến chống lại quân Tống vào năm 1075-1077.
Lý Thường Kiệt sinh năm 1019, là con trai đầu lòng của Ngô An Ngừ - một võ tướng ở phường Thái Hòa và bà thuộc họ Hàn, được đặt tên là Ngô Tuấn.
Dưới thời Lý Thánh Tông, sau khi ông An Ngừ qua đời, chồng của em gái ông, ông Tạ Đức, đưa Lý Thường Kiệt về nuôi dưỡng và giáo dục. Khi 18 tuổi (1036), khi mẹ qua đời, Ngô Tuấn được vua thăng chức lên Đô Tri và đổi họ thành Lý Thường Kiệt.
Vào năm 1061, vua đã giao cho ông nhiệm vụ giữ gìn an ninh ở vùng núi Thanh - Nghệ. Dưới sự lãnh đạo của ông, dân chúng có đủ ăn no, biên giới được bảo vệ vững chắc.
Vào năm 1075, khi nhà Tống âm mưu xâm lược nước ta, Lý Thường Kiệt đã tư vấn với Thái hậu Ỷ Lan rằng: “Chúng ta không nên ngồi yên chờ đợi giặc, mà hãy dẫn quân đánh trước”. Thái hậu đã đồng ý cho Lý Thường Kiệt và Tông Đản dẫn quân tấn công Châu Ung, Châu Khâm và Châu Liêm, chiếm được thành. Sau đó, ông đã xây dựng hệ thống phòng thủ ở sông Như Nguyệt.
Vào năm 1077, khi quân đội của nhà Tống tiến vào sông Như Nguyệt, Lý Thường Kiệt đã bao vây và đánh đuổi chúng thành công. Cuộc kháng chiến chống lại nhà Tống đã đạt được chiến thắng huy hoàng.
Vào năm 1105, Lý Thường Kiệt qua đời, được tặng các danh hiệu văn võ lớn, trở thành tấm gương sáng về lòng yêu nước. Trong lịch sử Việt Nam, ông là một trong những quan tài dũng cảm nhất. Trong cuộc chiến tranh Việt Nam - Trung Quốc, ông là tướng lĩnh duy nhất của Việt Nam đã dẫn quân xâm nhập Trung Quốc để đánh tan âm mưu xâm lược của địch.
Thuyết minh về chủ tịch Hồ Chí Minh
Hồ Chủ tịch là một nhà lãnh đạo cách mạng kiệt xuất, một người chiến sĩ cộng sản kỳ cựu, một danh nhân văn hóa của thế giới. Với dân tộc Việt Nam, Người là Cha, là Bác, là Anh, Quả tim lớn lọc trăm dòng máu nhỏ… (Tố Hữu). Đất nước ta, dân tộc ta tự hào về Hồ Chủ tịch – một con người đơn giản và vĩ đại – là biểu tượng của truyền thống lịch sử 4000 năm vẻ vang.
Vào đầu thế kỷ XX, thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành đã hiểu rõ nỗi nhục nô lệ dưới chế độ thực dân Pháp và đã theo gương các tiền bối như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh… để tìm cách cứu nước. Rời bến cảng Nhà Rồng (Sài Gòn) vào năm 1911, Nguyễn Tất Thành đã quyết định đi sang Pháp để nắm bắt đối thủ, từ đó tìm ra cách chống lại chúng.
Trải qua 30 năm hoạt động cách mạng ở nước ngoài, chiến sĩ cộng sản quốc tế Nguyễn Ái Quốc đã có nhiều đóng góp quan trọng cho phong trào giành lại quyền lợi của các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới và trở thành người sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Năm 1941, với kiến thức sâu sắc về chủ nghĩa Mác – Lê-nin và kinh nghiệm lãnh đạo, Nguyễn Ái Quốc trở về Việt Nam và tiếp tục lãnh đạo cuộc cách mạng.
Cuộc cách mạng tháng Tám năm 1945 đã bùng nổ, dân tộc ta đã vùng lên phá vỡ xiềng xích của chế độ phong kiến và đánh bại thực dân Pháp cũng như phát xít Nhật, giành lại sự độc lập và tự do. Ngày 2-9-1945, Nguyễn Ái Quốc đã đọc bản Tuyên ngôn Độc lập và trở thành Chủ tịch đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. (Chủ tịch Hồ Chí Minh.)
Trong suốt chín năm kháng chiến chống Pháp, Bác Hồ đã lãnh đạo toàn Đảng, toàn dân trong cuộc kháng chiến kỳ diệu và kết thúc bằng chiến thắng Điện Biên Phủ lịch sử. Sau khi miền Bắc được giải phóng, nhân dân đã bắt tay vào xây dựng đất nước và hỗ trợ miền Nam tiếp tục đấu tranh. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đoàn kết toàn Đảng, toàn quân, toàn dân chiến đấu đến cùng để giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước và khẳng định truyền thống anh hùng của dân tộc Việt Nam.
Tính nhân ái của Bác Hồ được thể hiện qua việc hy sinh cả cuộc đời để mưu cầu độc lập tự do cho dân tộc: Tự do cho tổ quốc, cơm áo cho đồng bào. Điều duy nhất Bác Hồ muốn là mọi người trong dân tộc có cơm ăn, áo mặc và được học hành.
Bác Hồ có tình yêu thương sâu sắc đối với con người. Trong thời gian bị giam giữ, Bác luôn quan tâm đến những đứa trẻ và trải qua những khó khăn với họ. Trong cuộc kháng chiến, Bác Hồ luôn quan tâm và yêu thương các em nhỏ, chia sẻ niềm vui và nỗi khổ với họ.
Bác Hồ hiểu và thông cảm với người lao động vất vả, lo lắng cho mất mùa và cùng họ vui mừng khi có mùa màng: Nghe nói năm nay trời đại hạn, Mười phân thu hoạch chỉ vài phân… Khắp chốn nông dân cười hớn hở, Đồng quê vang dậy tiếng ca vui.
Tình yêu thương của Bác Hồ bao trùm tất cả các tầng lớp nhân dân.
Bác Hồ là biểu tượng của tình yêu thương, ôn hòa như trời đất của chúng ta, luôn yêu quý từng ngọn lúa, mỗi nhành hoa, và dành tự do cho mỗi đời nô lệ. Sự hi sinh của Bác là như sữa dành cho em thơ và lụa tặng cho người già.
(Bác ơi- Tố Hữu)
Tâm hồn của Bác là biển bao la, luôn thương yêu chung thủy cuộc đời, cỏ hoa. Ngài chỉ biết quên mình để dành trọn tình yêu cho mọi người, giống như dòng sông chảy vô tận nặng chất phù sa.
(Theo chân Bác – Tố Hữu).
Bác Hồ dành cả đời mình cho sự nghiệp vĩ đại của đất nước và dân tộc. Ngài nâng niu tất cả chỉ để quên mình. Cuộc sống của Người giản dị, thanh bạch, không bao giờ tự mãn. Tâm hồn khiêm tốn, sự hài hòa giữa tư tưởng cao cả và phong thái tự nhiên, gắn bó với con người và thiên nhiên, đã tạo nên sức lôi cuốn vĩ đại đối với dân tộc và nhân loại.
Hồ Chủ tịch là một người khiêm tốn, đơn giản và vĩ đại. Tài năng và phẩm chất của Bác rất xứng đáng với những danh hiệu cao quý mà cả nhân loại đã tôn vinh: lãnh tụ cách mạng vô sản xuất sắc, chiến sĩ hòa bình, danh nhân văn hóa thế giới... Dân tộc Việt Nam tự hào về Chủ tịch Hồ Chí Minh, vì Bác là kết tinh tinh hoa của bốn ngàn năm lịch sử và thời đại. Bác Hồ là hình ảnh đẹp nhất về một Con Người chân chính.
Thuyết minh về anh hùng Trần Quốc Tuấn
Nhìn lại cuộc đời vĩ nhân Thánh Trần, là biệt danh cao quý mà dân tộc Việt Nam dành cho Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn - anh hùng dân tộc thiên tài đã dẫn dắt quân dân Đại Việt ba lần đánh bại quân Mông Nguyên với chiến tích hào hùng. Sự nghiệp, tài năng và hơn hết là nhân cách lớn lao, kỳ vĩ của Người đã để lại trong lòng người dân lòng biết ơn sâu sắc. Và Người đã được coi là Thánh trong tâm thức dân gian với niềm hy vọng vào một nhân vật lịch sử kết tinh tất cả truyền thống văn hoá của nước Việt.
Năm 1228, nhà Trần mới giành được ngôi báu từ nhà Lý, đang phải đối mặt với nhiều thách thức từ các thế lực cát cứ nổi lên khắp nơi như Đoàn Thượng, Nguyễn Nộn… cùng với cuộc đấu tranh nội bộ và sự xâm nhập từ nhà Lý. Trong bối cảnh lịch sử đầy biến động và mưu toan, Thái sư Trần Thủ Độ đã thực hiện cuộc đảo chính để bảo vệ triều Trần khỏi các mối đe dọa nội bộ và bên ngoại.
Trong bối cảnh rối ren và phức tạp đó, Trần Quốc Tuấn được dự báo sẽ trở thành người có thể thay đổi số phận đất nước. Cha của Tuấn - Trần Liễu, đang mang nỗi hận thù về việc mất vợ do Lý Thuận Thiên cướp, đã đặt nhiều kỳ vọng vào con trai và dành rất nhiều tâm huyết để nuôi dạy Tuấn.
Tuấn ngày càng trở nên thông minh và hiểu biết, đọc sách nhiều và sâu rộng. Cha của Tuấn rất vui mừng và hy vọng rằng con trai sẽ có thể giành lại ngôi báu để báo thù cho mối thù xưa.
Năm 1258, quân Mông Nguyên xâm lược biên giới Đại Việt. Khi đó, Hưng Đạo vương chỉ mới 30 tuổi, đã dẫn dắt triều đình và quân dân chống lại đội quân Mông Nguyên một cách quyết liệt. Mặc dù chiến thắng, nhưng triều đình Đại Việt vẫn phải nộp nhiều đặc sản và đối mặt với sự đòi hỏi của nhà Mông Nguyên.
Với sự chiến lược của một nhà quân sự thiên tài, Hưng Đạo vương nhận thấy rằng quân Mông Nguyên sẽ không từ bỏ kế hoạch xâm lược Đại Việt. Do đó, ngay sau trận chiến, Hưng Đạo Vương đã chuẩn bị cho trận chiến tiếp theo với quyết tâm cao.
Dự đoán đúng, trận chiến với quân Mông Nguyên lần thứ hai (1285) là trận chiến lớn nhất và được chuẩn bị kỹ lưỡng nhất. Trong khi Hốt Tất Liệt đã sai con trai là Thoát Hoan, được phong làm Trấn Nam Vương và dẫn đội quân lớn xâm lược Đại Việt. Hưng Đạo Vương được bổ nhiệm làm Quốc công Tiết chế và dẫn đầu quân đội. Anh đã dự trù con đường tiến quân của kẻ thù và chuẩn bị các trận địa ở Vĩnh Châu, Nội Bàng, Thiết Lược...
Dù quân Trần đã phải rút lui về Vạn Kiếp do sức mạnh của kẻ thù, nhưng Hưng Đạo Vương thông qua lời khuyên của Dã Tượng đã quyết định rút lui về Bãi Tân bằng thuyền của Yết Kiêu. Không ngờ Yết Kiêu vẫn kiên định chờ đợi, và khi quân giặc đang đến gần, anh đã chở Hưng Đạo Vương ra xa, bắn tên như mưa để che chở họ. Trong lòng, Hưng Đạo Vương cảm kích sự trung thành của hai người hầu trung thành và dùng câu nói: 'Chim hồng hộc bay cao nhờ sự ủng hộ của sáu trụ xương cánh, nếu không, chúng ta sẽ chỉ là những con chim bình thường'.
Hưng Đạo Vương hiểu rằng để thành công, cần phải có sự giúp đỡ từ những người tâm phúc, không thể làm được mọi việc một mình. Tại Tuyên Quang, Trần Nhật Duật phải rút lui, khiến vua Trần Thái Tông lo lắng. Người dò ý Tiết Chế đề nghị đầu hàng để cứu mạng, nhưng Trần Hưng Đạo kiêng nhẫn nói: 'Nếu bệ hạ muốn đầu hàng, hãy chém đầu tôi trước'. Với chiến thuật 'dĩ đoản chế trường', Trần Hưng Đạo đã vận dụng một cách khéo léo để dẫn dắt quân đội và dần giành ưu thế trên mặt trận. Cuối cùng, quân Nguyên đã bị đánh tan và Thoát Hoan phải chạy trốn.
Năm Đinh Hợi (1287), quân Nguyên tiếp tục tấn công Đại Việt lần thứ ba, chủ yếu trên biển và gửi thêm các tướng lãnh khác như Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp, Áo Lỗ Xích để xâm nhập từ 3 hướng khác nhau. Dù trước mắt tình hình trông như thế giặc đã chia đôi, nhưng dưới sự lãnh đạo của Hưng Đạo Vương, quân Trần dần chiếm ưu thế. Quân Nguyên gặp nhiều khó khăn do không quen với khí hậu và thiếu lương thực. Cuối cùng, họ phải rút lui nhưng bị chặn ở sông Bạch Đằng và chịu thất bại lớn. Thoát Hoan cũng bị đánh bại và phải chạy trốn.
Quân Nguyên Mông, với sức mạnh không tưởng, chưa từng chịu thua trừ khi đối mặt với Xiêm (Thái Lan) nhờ vào chính sách hòa bình của họ, Nhật Bản sau một trận bão biển thiệt hại nặng nề, và Đại Việt với sự chỉ huy của Hưng Đạo Vương. Nếu không có sự can thiệp của Hưng Đạo Vương, không chắc Đại Việt đã có thể chiến thắng quân Nguyên Mông ba lần như vậy.
Nhờ những thành công của mình, Trần Hưng Đạo đã được thế giới công nhận là một trong mười vị tướng tài giỏi nhất mọi thời đại, sánh ngang với các danh tướng khác như Thành Cát Tư Hãn, Napoleon... Bác Hồ cũng luôn khuyến khích các lãnh đạo chiến lược của Việt Nam đọc về chiến công của nhà Trần và chiến thuật của Trần Hưng Đạo. Phương pháp đánh du kích của Trần Hưng Đạo đã trở thành một phần trong chiến lược quốc gia của Việt Nam. Cả nước hào hứng vì đã sinh ra một người anh hùng như Trần Hưng Đạo, làm tăng thêm uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế.
Rất nhiều câu chuyện về đời tư của Trần Hưng Đạo đã được nghe kể. Nhưng tôi chỉ muốn khẳng định rằng: Nhân cách của Người vô cùng lớn lao, vô cùng sâu sắc và đẹp đẽ so với những người thời kỳ. Người đã thực hiện những điều đặc biệt mà không phải ai cũng làm được, với một tấm lòng tràn đầy Tận Nghĩa, Chí Trung và giản dị với cuộc sống.
Ba lần đối mặt với cuộc đời, ba lần thể hiện sự trung thành với tổ quốc, với nhân dân. Tâm hồn cao quý và tài năng vượt trội đã khiến Trần Hưng Đạo trở thành một vị thánh trong lòng người dân. Người vượt lên trên với tài năng và sự nghiệp kỳ diệu nhưng vẫn gần gũi với mọi người. Người yêu thương dân chúng và hiểu biết sâu sắc về cuộc sống và đất nước. Với Người, vĩnh hằng là điều tồn tại trong cả cuộc sống và lòng người.
Thuyết minh về đại thi hào Nguyễn Du
Nguyễn Du được biết đến là một đại thi hào của dân tộc, một tượng đài văn hóa toàn cầu, một nhà nhân đạo với tâm hồn sáng sủa và tri thức sâu rộng (theo Mộng Liên Đường).
Nguyễn Du, hay còn được biết đến với tên Tố Như, hiệu là Thanh Hiên, xuất thân từ làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Ông sinh vào năm 1765 (năm Ất Dậu) trong một gia đình giàu truyền thống quan lại dưới triều Lê, Trịnh. Cha của ông là Nguyễn Nghiễm, một người đã từng giữ chức Tể tướng trong suốt 15 năm. Mẹ của ông là Trần Thị Tần, một phụ nữ xuất thân từ Kinh Bắc với tài năng về xướng ca.
Quê hương của Nguyễn Du là một vùng đất địa linh, nhân kiệt, trí thức và tôn trọng tài năng. Gia đình Nguyễn Du có một truyền thống học thuật uyên bác và nổi tiếng với nhiều tác phẩm văn học. Gia đình và quê hương chính là nơi mà Nguyễn Du được nuôi dưỡng và phát triển thành một thiên tài văn chương.
Trong thời thơ ấu, Nguyễn Du đã trải qua cuộc sống khó khăn và cô đơn sau khi mất cả cha lẫn mẹ từ khi còn rất nhỏ. Ông đã phải đối mặt với nhiều thăng trầm trong cuộc đời, từ việc sống dựa vào Nguyễn Khản (anh ruột của cha mình, là Thừa tướng dưới triều Trịnh), cho đến khi Nguyễn Khản bị giam cầm và Nguyễn Du phải chạy trốn khỏi nhà cửa vì bị quân Kiêu phá hủy. Ở tuổi 19, Nguyễn Du đã thi đỗ tam trường và sau đó làm một vị quan tại Thái Nguyên. Tuy nhiên, sau khi triều đại nhà Lê sụp đổ vào năm 1789, Nguyễn Du đã phải trở về quê hương ở Thái Bình và sau đó là ở với gia đình cha mẹ. Trong thời gian này, ông đã đi khắp nơi từ Bắc Ninh đến Thăng Long để tìm kiếm nơi ổn định.
Trải qua hơn mười năm ở vùng Bắc, Nguyễn Du đã sống gần gũi với nhân dân và hiểu biết sâu sắc về nỗi khổ của cuộc sống, đặc biệt là của những người lao động, phụ nữ, trẻ em và những người nghèo khổ. Trải qua những biến cố lớn trong cuộc đời, Nguyễn Du đã trở thành một thiên tài văn học và nhà nhân đạo lớn.
Mặc dù lúc đầu Nguyễn Du đã không muốn gia nhập dòng dõi quan lại của gia đình Nguyễn, nhưng cuối cùng ông cũng đã chấp nhận. Năm 1813, ông được bổ nhiệm vào vị trí Học sĩ điện cần Chánh và được cử đi Trung Quốc làm Chánh sứ. Tuy nhiên, năm 1820, trước khi có thể đi, Nguyễn Du đã qua đời đột ngột vào ngày 10 tháng 8 năm 1820 (dương lịch). Suốt thời gian ông làm quan cho gia đình Nguyễn, Nguyễn Du sống kín đáo, ít nói và giữ nhiều tâm sự trong lòng.
Tư tưởng của Nguyễn Du vô cùng phức tạp và đầy mâu thuẫn: ông trung thành với triều đại Lê, không ủng hộ phong trào Tây Sơn, và không tự nguyện làm quan cho triều đại Nguyễn. Ông là một người có lý tưởng, có hoài bão, nhưng trước những khó khăn trong cuộc sống, Nguyễn Du thường cảm thấy buồn chán. Ông coi những hoạt động như tu Phật, tu tiên, câu cá, săn bắn là vô ích, nhưng lại rơi lệ trước những biến cố của cuộc đời. Nguyễn Du đã phải đối diện với nhiều thách thức trong một thời kỳ lịch sử đầy bi kịch. Dù đó là bi kịch của riêng ông, nhưng lại là nguồn cảm hứng cho tác phẩm của ông với chiều sâu chưa từng có trong văn học Việt Nam.
Nguyễn Du viết ba tập thơ bằng chữ Hán, bao gồm Thanh Hiên thi tập, Nam trung tạp ngâm, và Bắc hành tạp lục, với tổng cộng 250 bài thơ viết bằng chữ Nôm. Ông đã sáng tác kiệt tác Đoạn Trường Tân Thanh (Truyện Kiều), Văn Tế Thập Loại Chúng Sinh (Văn Chiêu Hồn), cùng một số tác phẩm mang đậm dấu ấn dân gian như Văn Tế Sống Hai Cô Gái Trường Lưu và Thác Lèn Trai Phường Nón.
Truyện Kiều bắt đầu với lời tâm sự của Nguyễn Du:
“Đã trải qua biết bao cuộc đời bể dâu
Thấy mà lòng đau đớn không tả được”.
Chính những trải nghiệm đầy đau thương khiến cho tác phẩm của Nguyễn Du mang một chiều sâu hiện thực đặc biệt. Và nỗi đau ấy đã khiến cho Nguyễn Du trở thành một nhà thơ nhân đạo lỗi lạc.
Nguyễn Du là nhà thơ 'đứng giữa những khó khăn nhưng mở lòng để nhận lấy tất cả những rung cảm của cuộc sống' (Nam Cao). Thơ chữ Hán của Nguyễn Du giống như những trang nhật ký của cuộc sống và tâm hồn. Tất cả những cảnh sống đầy sóng gió, những lúc ốm đau, cùng với những sự kiện lịch sử... đều được Nguyễn Du ghi lại một cách chân thực (Đêm thu: Tình cờ viết thơ; Ngồi dòm...). Nguyễn Du phản ánh sự đối lập giữa giàu và nghèo trong Sở kiến hành hoặc Thái Bình mại giả ca... Ông phản đối việc triệu hồi hồn Khuất Nguyên về nước Sở của Tống Ngọc vì nước Sở 'đầy bụi cát lấm áo người' chỉ toàn 'vuốt nanh”, “độc ác”, “xé xác để nghiền ngọt xớt”... Nước Sở của Khuất Nguyên hay nước Việt của Tố Như cũng chỉ là một hiện thực: cái ác lan tràn khắp nơi, người tốt không có nơi trú ngụ. Truyện Kiều sử dụng bối cảnh đời Minh (Trung Quốc) nhưng trước hết là một bản tường trình sắc bén về 'những điều trông thấy' của Nguyễn Du về thời kỳ mà ông đang sống. Bằng cách phản ánh mạnh mẽ và chỉ trích, ông tạo ra một tác phẩm có chiều sâu hiện thực chưa từng có trong văn học.
Sáng tác của Nguyễn Du toát lên tinh thần nhân đạo, chủ yếu là sự quan tâm sâu sắc đối với cuộc sống của con người. Truyện Kiều không chỉ là một tác phẩm văn học đầy tính tường trình mà còn là một bài ca về tình yêu tự do, về giấc mơ của công lý tự do 'mở cửa tù và bỏ đi ràng buộc'. Nhưng Truyện Kiều chủ yếu là tiếng khóc than về số phận và nhân phẩm của con người bị bóc lột, đặc biệt là phụ nữ.
'Thương cảnh phận phụ nữ đau khổ
Lo toan bạc mệnh vẫn như lời chung'.
Không chỉ Truyện Kiều mà hầu hết các tác phẩm của Nguyễn Du đều phản ánh sự đau khổ, xót xa: từ việc Đọc Tiểu Thanh kí đến Người ca nữ của đất Long Thành, từ Sở kiến hành đến Văn tế thập loại chúng sinh... Thậm chí Nguyễn Du còn vượt qua cả ranh giới địa lý, vượt qua cả sự chia ly giữa chính mình và kẻ thù, và vượt qua cả sự phân biệt giữa sống và chết để thấu hiểu đau thương cho những kẻ chết trong trận đánh, phơi bày “xương trắng” trước “dinh thự quý tộc”.
Không chỉ biểu lộ sự xót thương, Nguyễn Du còn tôn trọng, ca ngợi vẻ đẹp, cùng với những ước mơ về cuộc sống, ước mơ về tình yêu hạnh phúc. Tư tưởng nhân đạo của Nguyễn Du đã vượt qua những hạn chế của tư duy phong kiến và tôn giáo để khẳng định giá trị của con người. Đó chính là ý tưởng sâu sắc nhất mà ông đã mang lại cho văn học Việt Nam trong thời đại của mình.
Nguyễn Du đã có đóng góp to lớn trong lĩnh vực tư tưởng, đồng thời cũng đóng góp quan trọng trong nghệ thuật.
Thơ chữ Hán của Nguyễn Du vừa đơn giản mà tinh tế, vừa đầy tài nghệ. Thơ Nôm của Nguyễn Du thực sự là điểm cao sáng chói. Nguyễn Du đã sử dụng một cách khéo léo hai thể thơ dân tộc: lục bát (Truyện Kiều) và song thất lục bát (Văn tế thập loại chúng sinh). Dưới bàn tay của Nguyễn Du, thơ lục bát và song thất lục bát đã đạt đến mức độ hoàn thiện, mẫu mực, cổ điển.
Nguyễn Du đã có đóng góp rất lớn, vô cùng quan trọng cho sự phát triển vững mạnh, tinh túy của ngôn ngữ văn học Tiếng Việt: tỷ lệ từ Hán - Việt giảm đáng kể, câu thơ tiếng Việt trở nên dễ hiểu, tinh tế, trau chuốt nhờ vào luật vần chặt chẽ, ngắt nhịp linh hoạt, đa dạng, tiểu đối phong phú, sáng tạo. Thơ của Nguyễn Du thực sự là tinh hoa của văn học tiếng Việt thời Trung Đại. Đặc biệt, Truyện Kiều của Nguyễn Du là “đỉnh cao văn học” về ngôn ngữ của dân tộc.
Thuyết minh về Nguyễn Trãi
Trong lịch sử xây dựng và bảo vệ đất nước Việt Nam, Nguyễn Trãi là một nhân vật xuất sắc. Trí tuệ, tài năng và phẩm chất của ông tỏa sáng như một vì sao Khuê không bao giờ tắt, soi rọi cho muôn đời sau. Ông là “tinh hoa của dân tộc, là khí phách của dân tộc. Sự nghiệp và tác phẩm của ông là biểu tượng của lòng yêu nước, tự hào dân tộc”. Ông có nhiều tài năng, không chỉ là một chính trị gia, quân sự, ngoại giao thiên tài đã có đóng góp lớn trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn mà còn là một tác giả tài năng với nhiều tác phẩm bền vững qua thời gian.
Nguyễn Trãi (1380–1442) hiệu là Ức Trai. Ông sinh ra trong một gia đình có truyền thống văn minh và lòng yêu nước. Cha ông là một học trò nghèo đỗ Thái học sinh – Nguyễn Phi Khanh. Mẹ ông là Trần Thị Thái, con gái của quan Tư Đồ Trần Nguyên Đán. Quê gốc của Nguyễn Trãi là làng Chi Ngại, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương nhưng ông sinh ra tại Thăng Long trong dinh của ông ngoại, sau này ông chuyển về sống ở làng Ngọc Ổi, xã Nhị Khê, huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây. Từ khi còn nhỏ, Nguyễn Trãi đã phải đối mặt với nhiều biến cố.
Năm ông 5 tuổi, ông đã mất mẹ. Không lâu sau đó, ông ngoại của ông cũng qua đời. Ông sống cùng cha tại quê nhà ở làng Nhị Khê. Cuộc đời của ông là một chuỗi bi thương, thử thách.
Năm 1400, sau khi lên ngôi, Hồ Quý Ly mở cửa thi. Nguyễn Trãi dự thi và đỗ Thái học sinh (tiến sĩ) ở tuổi 20. Hồ Quý Ly bổ nhiệm ông làm Ngự sử đài chánh chưởng. Cha của ông, Nguyễn Phi Khanh, đã đỗ bảng nhãn từ năm 1374 và được Hồ Quý Ly bổ nhiệm làm Đại lý tự khanh Thị lang tòa trung thư kiêm Hàn lâm Viện học sĩ tư nghiệp Quốc Tử Giám.
Năm 1406, quân Minh xâm lược nước ta. Nhà Hồ ra quân đánh lại, nhưng thất bại. Cha con Hồ Quý Ly và một số quan triều đình khác, trong đó có Nguyễn Phi Khanh, bị bắt và dẫn về Trung Quốc. Nguyễn Trãi lắng nghe lời cha, quay trở lại để tìm cách đánh đuổi giặc, cứu nước.
Ông đã vượt qua vòng vây của quân giặc tại Thanh Hóa cùng với Lê Lợi. Ông đã trao cho Lê Lợi một bản chiến lược chiến đấu chống lại quân Minh - cuốn Bình Ngô sách 'hiến mưu trước lớn không nhắc đến việc tấn công thành, mà lại thông minh nhắc đến việc chiến đấu trong lòng người'.
Lê Lợi ca ngợi chiến lược của Nguyễn Trãi là chính xác. Và ông đã sử dụng chiến lược này để chống lại quân Minh. Từ đó, ông thường giữ Nguyễn Trãi ở gần mình để cùng thảo luận về chiến lược chống lại quân Minh.
Trong cuộc chiến, Nguyễn Trãi đã đề xuất rằng chỉ khi dựa vào dân thì ta mới có thể chiến thắng quân giặc và cứu nước. Sau khi chiến tranh kết thúc thành công, ông nhận ra rằng việc quan tâm đến dân là cần thiết để xây dựng lại đất nước. Trong một bức thư cảm ơn sau khi được bổ nhiệm làm quan, ông viết rằng: 'Chính vì tôn trọng mong muốn của dân, chúng ta cần lo lắng cho họ trước khi lo cho bản thân mình'.
Với triết lý luôn 'lo lắng cho người dân trước, hạnh phúc của họ trước hạnh phúc của bản thân', Nguyễn Trãi luôn sống một cuộc sống giản dị, tích cực và liêm chính. Ngôi nhà của ông tại Thăng Long (Hà Nội) chỉ là một căn nhà tranh nhỏ (góc thành Nam lều một gian). Khi ông đảm nhiệm công việc quản lý quân dân ở hải đảo Đông Bắc, nhà của ông ở Côn Sơn chỉ là một tổ hợp sơ sài, chỉ có sách là một phần của giàu có (thơ của Nguyễn Mộng Tuân, bạn của Nguyễn Trãi). Năm 1442, án oan “Lệ chi viên” bất ngờ rơi vào đầu ông. Ông và gia đình phải chịu hình phạt oan uổng nhất trong lịch sử phong kiến Việt Nam. Cho đến năm 1464, vua Lê Thánh Tông đã ban hành chiếu minh oan cho Nguyễn Trãi, tặng quan tước và tìm kiếm con cháu còn sống sót và bổ nhiệm ông vào vị trí quan lớn.
Ông đã để lại một di sản văn học vô cùng quý giá: 'Quân trung từ mệnh tập' về quân sự và chính trị bao gồm những thư từ mà ông viết trong quá trình giao tiếp với quân Minh. Những thư này là bằng chứng cụ thể minh chứng cho chiến lược ngoại giao tài tình và thông minh của Lê Lợi và Nguyễn Trãi, giúp quân Lam Sơn chiến thắng mà không mất nhiều máu và nước mắt.
'Bình ngô đại cáo' là một trong những tác phẩm văn học vĩ đại nhất trong lịch sử, tổng kết mười năm kháng chiến chống lại quân Minh và mở ra một kỷ nguyên mới cho đất nước ... Trong phạm vi lịch sử, 'Lam Sơn thực lục' ghi lại cuộc khởi nghĩa Lam Sơn và 'Dư địa chí' mô tả địa lý của nước ta vào thời điểm đó. Về văn học, Nguyễn Trãi đã sáng tạo 'Ức trai thi tập' và 'Quốc Âm thi tập'.
'Quốc Âm thi tập' được viết bằng chữ nôm, là dấu mốc quan trọng đánh dấu sự xuất hiện của thơ ca Tiếng Việt. Ông là người dẫn đầu trong việc phát triển thơ Nôm trong hàng ngàn văn chương chữ Hán của thời kỳ.
Bên cạnh đó, tư tưởng nhân nghĩa, triết lý về thế sự và tình yêu thiên nhiên cũng được thấm nhuần trong thơ văn của ông. Tư tưởng nhân nghĩa và tình yêu nước, thương dân là điểm nổi bật trong thơ văn của Nguyễn Trãi. Ông luôn nhấn mạnh rằng tình yêu nước phải đi đôi với lòng nhân từ, và việc quan tâm đến dân là cách tốt nhất để đảm bảo hạnh phúc cho mọi người. Thơ của Nguyễn Trãi thể hiện sâu sắc tư duy về thế sự, với những trải nghiệm đau đớn về cuộc sống. Ông cũng thể hiện tình yêu đối với thiên nhiên, xem nó như một người bạn đồng hành, một phần của gia đình.
Thơ văn của Nguyễn Trãi là tinh hoa của văn học dân tộc, ông đã có nhiều đóng góp lớn cho văn học Việt Nam. Bằng cách viết các bài thơ, các bài diễn văn và các bài luận, ông đã giúp xây dựng nên nền văn hóa tư tưởng cho dân tộc. Thơ chữ Hán của Nguyễn Trãi là một thế giới của sắc đẹp và trí tuệ, kết hợp giữa tình yêu và lòng dũng cảm. Với thơ Nôm, ông đã làm tiên phong, để lại nhiều tác phẩm nhất và sâu sắc nhất. Những bài thơ của ông tràn đầy tri thức, sâu sắc, chứa đựng nhiều cảm xúc về cuộc sống, được viết bằng ngôn ngữ mượt mà và cổ điển. Nguyễn Trãi là người đã sớm sử dụng tục ngữ trong tác phẩm của mình, và ông cũng là người đã sáng tạo ra hình thức thơ thất ngôn xen lục ngôn, một dạng thơ mới mẻ. Có thể nói rằng Nguyễn Trãi là một nhân vật văn hóa lớn lao, có tài năng và phẩm chất trong lịch sử Việt Nam. 'Bình ngô đại cáo' của ông là một tác phẩm văn học kinh điển, là một ca ngợi vĩ đại của dân tộc.
Nguyễn Trãi là một nhân vật vĩ đại trong lịch sử Việt Nam, ông không chỉ góp phần viết nên những trang hào hùng trong lịch sử giữ nước mà còn góp phần xây dựng nên nền văn hóa dân tộc. Nguyễn Trãi đề cao tư tưởng về nhân nghĩa, tình yêu nước, lòng nhân từ, và gắn bó chặt chẽ với cảnh vật thiên nhiên của đất nước, thể hiện sự yêu thương ngôn từ Việt mạnh mẽ. Tâm hồn và sự nghiệp của ông luôn sáng ngời như ngôi sao Khuê Tảo mà Lê Thánh Tông đã tặng cho ông. Thời gian có thể phủ mờ tất cả nhưng ánh sáng của ngôi sao ấy sẽ vẫn chiếu rọi qua các thế hệ. Nguyễn Trãi - một danh nhân văn hóa của thế giới sẽ mãi là nguồn cảm hứng tự hào của Việt Nam.
Phân tích về Võ Thị Sáu
Mẫu 1
Chắc hẳn mọi người dân Việt Nam ai cũng biết về anh hùng dân tộc Võ Thị Sáu. Chị là một tấm gương sáng cho thế hệ trẻ của đất nước.
Võ Thị Sáu là một nữ du kích tham gia vào cuộc kháng chiến chống Pháp tại Việt Nam. Chị sinh năm 1933 tại huyện Đất Đỏ, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu trong một gia đình nghèo. Cha mẹ chị làm nghề buôn bán bún bì chả. Từ nhỏ, chị đã phải giúp cha mẹ kiếm sống. Sau thành công của Cách mạng Tháng Tám, khi Việt Nam lập chính phủ và chuẩn bị cho cuộc kháng chiến chống Pháp, chị bỏ việc học để ở nhà giúp gia đình và tham gia vào hoạt động tiếp tế cho chiến sĩ của tỉnh Bà Rịa.
Lúc 14 tuổi, chị Võ Thị Sáu gia nhập đội Công an xung phong Đất Đỏ. Chị được biết đến như một o du kích dũng cảm và gan dạ. Chị tham gia vào nhiều trận tập kích, thực hiện ám sát các sĩ quan Pháp và Việt gian bằng lựu đạn. Thật đáng tiếc khi vào năm 1950, chị bị tòa án quân sự Pháp kết án với tội danh giết một sĩ quan Pháp và 23 người Việt cộng tác với Pháp. Chị bị xử tử vào ngày 23 tháng 1 năm 1952.
Trước khi qua đời, chị Sáu đã kêu gào: “Đánh bại bọn thực dân Pháp. Việt Nam độc lập mãi mãi. Hồ Chủ tịch vĩnh viễn!” Hình ảnh của cô gái từ đất đỏ sẽ luôn ấn tượng sâu trong lòng người Việt.
Mẫu 2
Trong lòng mỗi người dân Việt Nam, tên Võ Thị Sáu là biểu tượng của sự dũng cảm và tinh thần hy sinh cao cả. Chị là một trong những anh hùng dân tộc nổi tiếng, luôn là nguồn cảm hứng bất tận cho thế hệ trẻ.
Võ Thị Sáu sinh năm 1933 tại huyện Đất Đỏ, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, trong một gia đình nghèo đơn thuần, cha mẹ làm nghề buôn bán bún bì chả để nuôi sống gia đình. Từ khi còn nhỏ, chị đã phải đối mặt với cuộc sống khó khăn và phải phụ giúp cha mẹ trong công việc hàng ngày.
Sau thành công của Cách mạng Tháng Tám, Việt Nam chuẩn bị cho cuộc kháng chiến chống Pháp. Lúc này, Võ Thị Sáu từ bỏ việc học và ở nhà giúp bố mẹ kiếm sống, đồng thời âm thầm tiếp tế cho các anh của mình đang hoạt động trong chi đội Giải phóng quân của tỉnh Bà Rịa.
Khi chị Võ Thị Sáu mới 14 tuổi, chị đã chính thức gia nhập vào đội Công an xung phong ở Đất Đỏ. Chị là một o du kích dũng cảm, sẵn lòng đối mặt với nguy hiểm và tham gia vào nhiều cuộc tập kích, thậm chí thực hiện nhiệm vụ ám sát các sĩ quan Pháp và những người đồng bào phản bội.
Tháng 1 năm 1950, chị Võ Thị Sáu đã bị tòa án binh của quân Pháp đưa ra xét xử với cáo buộc làm chết một sĩ quan Pháp và 23 người Việt cộng tác với Pháp. Không hề biểu hiện sự sợ hãi, chị đã quyết liệt và dũng cảm đối mặt với án tử hình.
Trước khi ra đi, lời kêu gọi của chị vang lên: 'Đánh bại bọn thực dân Pháp. Việt Nam độc lập mãi mãi. Hồ Chủ tịch vĩnh viễn!' Hình ảnh của cô gái Đất Đỏ này sẽ luôn in sâu trong tâm hồn của người dân Việt Nam.
Võ Thị Sáu không chỉ là một anh hùng dân tộc mà còn là biểu tượng của sự kiên định, dũng cảm, và lòng yêu nước sâu sắc. Chị đã hy sinh để bảo vệ quê hương và tự do của dân tộc, và tên chị luôn được thế hệ sau kính trọng và tôn vinh. Chị Võ Thị Sáu là nguồn động viên và cảm hứng không chỉ cho người Việt Nam mà còn cho cả thế giới.