TOP 10 bài Thuyết minh về thể thơ lục bát ấn tượng nhất, mang đến thông tin quan trọng về đặc điểm và ý nghĩa của thể loại thơ này trong văn học Việt Nam.
Khi viết văn thuyết minh về thể thơ lục bát, cần tập trung vào phần mở đầu, mô tả đặc điểm và ý nghĩa, cũng như sự phát triển của thể loại này. Đồng thời, cần chú ý đến tính thuyết phục của thông tin trình bày. Bạn cũng có thể tham khảo các thể loại văn học khác như thể thơ Đường luật, truyện ngắn để làm phong phú thêm nội dung.
Dàn ý thuyết minh về thể thơ lục bát
1. Giới thiệu
Tổng quan về thể thơ lục bát (một hình thức sáng tạo của văn học Việt Nam, thể hiện cảm xúc một cách tự nhiên).
2. Nội dung chính
a. Đặc điểm cơ bản của thể thơ lục bát
* Đặc trưng của thể loại lục bát - (tuân thủ nghiêm ngặt các nguyên tắc)
- Số lượng câu và tiếng:
- Số dòng: Một câu bao gồm hai dòng (một cặp) với một dòng chứa sáu tiếng và một dòng chứa tám tiếng.
- Số câu: Không giới hạn nhưng kết thúc ở câu tám tiếng.
=> Một bài thơ lục bát: Có thể từ một câu, hai câu, ba câu hoặc nhiều câu kéo dài.
- Phương pháp vần:
- Âm tiết cuối của dòng sáu kết hợp vần với âm tiết thứ sáu của dòng tám trong mỗi cặp. Âm tiết cuối của dòng tám tiếp theo kết hợp vần với âm tiết thứ sáu của dòng sáu tiếp theo. Quá trình này lặp đi lặp lại cho đến hết bài thơ.
- Vần cuối ở dòng sáu gọi là vần chân, vần ở giữa dòng gọi là vần lưng.
- Cân nhắc thanh âm:
- Bắt buộc: tiếng thứ tư trong mỗi cặp phải là tiếng trắc; tiếng thứ hai, sáu và tám phải là tiếng bằng.
- Trong các câu tám tiếng, tiếng thứ sáu và tám phải khác dấu nhau (nếu tiếng trước có dấu huyền thì tiếng sau phải không có dấu và ngược lại).
- Các tiếng thứ một, ba, năm, bảy của cả hai dòng sáu tiếng và tám tiếng, cũng như âm tiết thứ hai (của cả hai dòng) có thể linh động chọn lựa giữa tiếng trắc và bằng.
- Nhịp và kết hợp âm:
- Phương thức chia nhịp thường là nhịp chẵn.
- Kết hợp âm: Thơ lục bát không yêu cầu sử dụng phép kết hợp âm. Tuy nhiên, đôi khi để làm nổi bật một ý hay, người viết thơ có thể sử dụng tiểu kết hợp âm trong từng cặp hoặc từng câu thơ.
* Biến thể của lục bát (không tuân thủ quy tắc)
- Số từ tăng lên: Vần lưng cũng thay đổi theo.
- Âm: Tiếng thứ hai có thể là âm trắc:
- Kết hợp vần: Có thể kết hợp vần trắc.
b. Tác dụng của thơ lục bát
- Thể hiện và thống nhất những phẩm chất thẩm mỹ đặc trưng của tiếng Việt.
- Cách kết hợp vần và phối âm, cách chia nhịp đơn giản nhưng phong phú và đa dạng tạo ra sự linh hoạt, đa dạng và phong phú, giúp thơ lục bát có khả năng diễn đạt đa dạng.
3. Kết thúc
- Đề cập về vị trí của thơ lục bát trong văn học Việt Nam.
- Xuất phát từ ca dao, dân ca, thể loại thơ này đã được phát triển qua các tác phẩm thơ Nôm, các tác phẩm kịch dân tộc và đạt đến đỉnh cao với các tác giả vĩ đại như Nguyễn Du …
- Tiếp tục được truyền bá qua các thế hệ sau như Tố Hữu …
=> Thơ lục bát vẫn tỏa sáng rực rỡ trong văn học hiện đại của Việt Nam.
Phân tích thơ lục bát
Lục bát được coi là một trong những dạng thể thơ sớm ra đời tại Việt Nam. Vì thơ lục bát đơn giản; gần gũi; gắn bó với đời sống của người nông dân, nhân dân Việt nên đã thu hút sự yêu thích của nhiều người. Nói về thơ lục bát ở Việt Nam, chúng ta như đang tạo ra một bức tranh hoà quyện; đậm chất dân tộc; tràn ngập tình thân thiết. Thơ lục bát - một phần không thể thiếu trong di sản văn hóa của con người Việt Nam, dân tộc Việt.
Thể thơ Lục Bát có nguồn gốc cổ xưa trong lịch sử văn học nhân loại. Có nhiều quan điểm cho rằng thơ lục bát bắt nguồn từ cuối thế kỉ XV; xuất phát từ các bài ca dao; đồng dao của người nông dân; lao động để xua tan mệt mỏi; tạo nên nguồn động viên lao động. Qua hàng nghìn năm phát triển, thơ lục bát càng trở nên hoàn thiện hơn; kỹ thuật hơn và có những biến đổi phù hợp với tiêu chí văn chương, trở thành nét đặc trưng đặc sắc của văn hóa Việt Nam.
Về cấu trúc, thơ lục bát bao gồm một cặp câu đối ứng. Một câu 6 chữ ở trên và một câu 8 chữ ở dưới. Trong bài thơ không có giới hạn về số câu. Thường sẽ bắt đầu bằng câu 6 chữ và kết thúc bằng câu 8 chữ trừ những trường hợp đặc biệt với ý nghĩa ẩn, tình cảm và phong cách riêng của tác giả. Hai câu thơ xen kẽ, hòa mình, tương hỗ lẫn nhau để diễn đạt ý nghĩa sâu sắc của từng cặp câu và ý nghĩa chung của cả bài.
Mặc dù linh hoạt và sáng tạo, thơ Lục Bát vẫn tuân theo nghiêm ngặt các quy tắc về thanh. Tương tự như thơ Đường Luật, thanh điều chỉnh trong câu lục bát tuân theo quy luật cố định: Nhất; tam; ngũ không kể nhị tứ lục chi tiết. Do đó, các tiếng 2 4 và 6 sẽ tuân thủ quy tắc. Cụ thể như sau:
Đối với câu lục: 2-4-6 lần lượt là Bằng(B)- Trắc- Bằng. Đối với câu bát: các thanh 2-4-6-8 tương ứng với B-T-B-B (Tiếng thứ 6 với tiếng thứ 8 không được cùng dấu). Quy tắc chặt chẽ về thanh tạo nên âm điệu thanh nhẹ nhàng; hòa hợp trong từng cặp câu thơ tương ứng.
Một điểm đặc trưng không thể nhầm lẫn của thể thơ lục bát là cách gieo vần. Trong thơ, thường sử dụng vần bằng. Tùy thuộc vào khả năng và cảm xúc của tác giả cũng như nội dung truyền đạt, có thể sử dụng nhiều loại vần linh hoạt, điều này không bắt buộc nhưng nhà thơ vẫn phải đáp ứng yêu cầu: đó là tiếng cuối cùng của câu lục phải hợp vần với tiếng thứ 6 của câu bát, tiếp tục như vậy cho đến hết bài. Quy định như vậy để thơ được liền mạch, dòng cảm xúc được thăng hoa và không ngừng. Ví dụ như trong bài thơ Quê hương nỗi nhớ có viết:
“Trở về tìm mái nhà quê
Tìm hình bóng mẹ bộn bề nắng mưa
Tìm nắng xuyên ngọn cây dừa
Tìm hương mạ mới gió lùa thơm tho
Tìm đàn trâu với con đò
Áo bà ba mẹ câu hò trên sông”
Nỗi nhớ quê hương trong lòng tác giả như một dải bao la, sâu lắng, da diết, đầy dư vị. Nổi tiếng với biệt danh thơ dân gian, thơ gần gũi Lục Bát mang trong mình hình ảnh mộc mạc, đôi khi yên bình, êm đềm nhưng cũng đôi khi mãnh liệt, đầy cảm xúc. Nhịp thơ đã làm nên bản sắc, làm cho dòng thơ trở nên phong phú; hấp dẫn. Để diễn đạt nỗi buồn sâu thẳm, đau lòng tha thiết, người ta sử dụng nhịp chẵn 2/2/2; 4/4. Ngược lại, để biểu hiện sự mãnh liệt, cảm xúc mạnh mẽ, quyết liệt; những cung bậc bất ngờ, người ta dùng nhịp lẻ 1/5; 3/5. Và đôi khi, để nhấn mạnh, để phô diễn sự hạnh phúc, niềm vui, người ta lại sử dụng nhịp 3/3.
Thơ lục bát được áp dụng rộng rãi trong cả văn học và văn viết nhờ tính linh hoạt; ý nghĩa phong phú của câu từ; đơn giản và không kén người đọc; người nghe; người sáng tác. Thơ lục bát xuất hiện ở nhiều khía cạnh của cuộc sống từ các hoạt động hàng ngày đến giải trí; công việc. Thơ lục bát là biểu hiện hạnh phúc; ngọt ngào của tình yêu đôi lứa:
“Bao nhiêu mơ mộng dễ say
Giận hờn như cơn sóng dạt dào trong lòng”
Là tình yêu thương trong gia đình, xóm làng chặt chẽ:
“Cuộc sống nhiều nỗi đắng cay
Nhìn về bậc cha mẹ, lệ rơi tuôn ngào
Hôm nay nước mắt rơi ngào ngạt
Nhớ ơn bậc cha mẹ, đời đời sẽ ghi nhớ”
Và đó cũng là những lời than thở đầy xót xa của phụ nữ trong xã hội cay đắng:
“Thương tiếc số phận người phụ nữ
Nói lên rằng số mệnh ai cũng vậy”
Thơ lục bát là tiếng nói, là nhịp thở của nhân dân Việt Nam; thể hiện mong ước về một cuộc sống an lành, hạnh phúc của đất nước Đại Việt. Những bài thơ Lục bát nổi tiếng như vẫn giữ nguyên giá trị và sức sống cho đến ngày nay như Truyện Lục Vân Tiên; Truyện Kiều hay những câu hát ru mang đầy ý nghĩa tình thương. Ngày nay, thể thơ lục bát đã phát triển và đa dạng hơn với các biến thể như nhịp, số tiếng, lục bát biến thể giảm số tiếng, thay đổi hiệp vần,… Tuy có thay đổi nhưng vẫn giữ được bản sắc truyền thống đặc trưng.
Duyên dáng, thanh nhã, có chút dịu dàng, lúng túng, nhưng cũng có lúc dữ tợn của thể thơ Lục Bát như một phần không thể thiếu trong văn hóa của người Việt xưa và nay, tạo nên một nét đẹp riêng, là điểm tự hào của đất nước Việt Nam khi chào đón mỗi du khách quốc tế đến thăm quê hương xinh đẹp này.
Thuyết minh về thể thơ lục bát - Mẫu 1
Văn học Việt Nam có một kho tàng văn chương đa dạng, từ nội dung đến các thể loại. Trong đó, khi nhắc đến văn chương thơ của Việt Nam, không thể không nhắc đến những tác phẩm đã in sâu vào tâm trí mỗi người như Truyện Kiều của Nguyễn Du hoặc những câu ca dao mà mẹ, bà kể trước mỗi giấc ngủ.
Mỗi câu, mỗi từ như âm nhạc khác biệt và khi hòa quyện trong thể thơ lục bát, chúng hòa vào nhau như một, mềm mại và hoàn hảo, nhưng vẫn gần gũi, mộc mạc, chân chất như hơi thở của cuộc sống. Lục bát là phương tiện thông dụng để người Việt thể hiện tâm sự, chia sẻ tâm trạng, và thăng hoa tinh thần. Gắn bó với tiếng Việt, gắn với tinh thần Việt, thơ lục bát đã trở thành một phần của bản sắc dân tộc. Rất tự hào mỗi khi nhắc đến thể thơ của dân tộc là nhắc đến lục bát.
Có rất nhiều nhà nghiên cứu đã tìm kiếm câu trả lời, nhưng câu hỏi vẫn chưa có lời giải đáp chính xác, chỉ biết rằng đã từ lâu rồi. Văn hóa đặc trưng của người Việt là văn hóa lúa nước, liên quan mật thiết đến công việc sản xuất nên luôn có những cách sáng tạo để quên đi những gian khổ hàng ngày. Họ thường cùng nhau làm việc trên cánh đồng, cùng nhau sáng tạo văn chương. Đơn giản chỉ là thể hiện những ước mơ giản đơn:
“Người ta cày đất, lao đầu vào việc
Còn tôi đi cày, nhìn lên trời, xuống đất
Nhìn mây, nhìn mưa, nhìn nắng, nhìn đêm
Thấu hiểu sự khó khăn, sự dễ dàng của cuộc sống
Chỉ khi trời yên, biển lặng mới có lòng yên bình”
Đơn vị cơ bản của thơ lục bát gồm một cặp câu: câu lục (sáu tiếng) và câu bát (tám tiếng). Thông thường, một bài thơ lục bát thường bắt đầu bằng câu lục và kết thúc bằng câu bát. Về số lượng câu trong một bài thơ lục bát không bị giới hạn chặt chẽ như các bài thơ đường. Một bài thơ lục bát có thể có hai hoặc bốn câu như:
“Ai cũng là anh em xa
Cùng chia sẻ trên một mái nhà
Yêu thương như tay chân vững vàng
Đoàn kết anh em, hòa thuận vui sướng”
Hoặc cũng có thể kéo dài ra hàng nghìn câu thơ, và một ví dụ điển hình là kiệt tác “Đoạn trường tân thanh” (Truyện Kiều) của đại thi hào Nguyễn Du (gồm 3253 câu, trong đó có 1627 câu lục và 1627 câu bát). Số lượng câu thơ hoàn toàn phụ thuộc vào nội dung và mục đích mà nhà văn muốn truyền tải đến độc giả.
Luật về thanh giúp cho câu thơ trở nên hài hoà. Vần chính là cách thức kết nối các câu thơ lại với nhau, tạo ra “âm nhạc” cho cả bài thơ. Vần trong thơ lục bát được chia thành hai loại: vần lưng và vần chân. Hai dòng lục bát hiệp theo vần lưng có nghĩa là tiếng thứ sáu của câu lục vần với tiếng thứ sáu của câu bát. Nếu tiếp tục kéo dài, tiếng thứ tám của câu bát lại vần với tiếng thứ sáu của câu lục bên dưới. Đó là vần chân. Ví dụ:
“Đầu lòng hai ả tố nga,
Thúy Kiều là chị em là Thúy Vân.
Mai cốt cách tuyết tinh thần,
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười”.
(Truyện Kiều – Nguyễn Du)
Quy luật phối thanh của thơ lục bát khá linh hoạt, uyển chuyển. Thông thường ở câu lục, các tiếng ở vị trí thứ hai, bốn, sáu là bằng (B), trắc (T), bằng (T), còn ở câu bát, các tiếng ở vị trí thứ hai, bốn, sáu, tám là B-T-B-B.
“Trăm năm trong cõi người ta, (B-T-B)
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau”.(B-T-B-B)
Nhịp trong thơ lục bát chủ yếu là nhịp chẵn, tạo ra âm điệu êm dịu, thong thả, thích hợp cho việc hát ru, hát ngâm.
Ví dụ:
Nhớ sao/ tiếng mõ/ rừng chiều
Chày đêm/ nện cối/ đều đều/ suối xa
(Việt Bắc – Tố Hữu)
Hoặc có thể thay đổi nhịp:
Em đi để lại chuỗi cười
Trong tôi vỡ… một khoảng trời pha lẽ
(Lời thề cỏ may – Phạm Công Trứ)
Thơ lục bát đã từ lâu chiếm vị trí quan trọng trong lòng người Việt. Chúng ta sử dụng lục bát để diễn đạt tâm trạng, cảm xúc của mình trong cuộc sống, công việc, tình bạn, tình yêu,… Lục bát cũng là nơi chúng ta tìm đến để tĩnh tâm sau những gian nan, khó khăn của cuộc sống, là nơi chúng ta được quay về với tuổi thơ và những giai điệu ru yêu thương của bà, của mẹ. Khó có thể tìm được thể loại thơ nào mà từng câu từng chữ đều mang đến giai điệu, chứa đựng cảm xúc mà lại gần gũi, mộc mạc như thơ lục bát.
Mặc dù không biết từ khi nào, nhưng lục bát là biểu tượng của tiếng Việt, tiếng Việt đã nuôi dưỡng lục bát, đồng thời, lục bát cũng đã góp phần làm cho tiếng Việt trở nên hay hơn, đẹp hơn.
Thuyết minh về thể thơ lục bát - Mẫu 2
Trong văn học phong phú của Việt Nam, các tác phẩm giá trị đều cần sự chọn lọc kỹ lưỡng của hình thức thơ. Hình thức thơ không chỉ đơn thuần là cách sắp xếp từ ngữ mà còn là cách truyền đạt nội dung, quan điểm của tác giả. Thơ lục bát là một trong những dạng thơ đậm chất dân tộc Việt Nam.
So với văn học Trung Hoa, văn học Việt Nam có thể xem là non trẻ hơn. Tuy nhiên, qua nhiều thế hệ, người Việt luôn biết cách học hỏi từ văn hóa thế giới, lựa chọn những điều phù hợp nhất và tích hợp vào văn hóa Việt Nam một cách sáng tạo. Điều này cho thấy bản lĩnh của dân tộc Việt Nam.
Trong văn học, người Việt không chỉ thừa hưởng từ người Trung Hoa mà còn tự sáng tạo ra những loại thơ phong phú. Thơ truyền thống như thơ cổ điển và thơ Đường đã được lưu truyền và phát triển. Ngoài ra, chúng ta cũng có những thể thơ đặc sắc, phản ánh đời sống và văn hóa dân tộc như thơ Song thất lục bát hay thơ Lục bát.
Thơ Lục bát gồm hai phần: câu lục và câu bát, xen kẽ nhau. Một bài thơ Lục bát thường bắt đầu bằng câu lục và kết thúc bằng câu bát. Không giống như thơ Đường luật hay thơ Song thất lục bát, số lượng câu trong một bài thơ Lục bát không bị giới hạn cứng nhắc. Một bài thơ có thể có từ hai đến bốn câu.
“Nhớ quê nhà mỗi khi ra đi
Nhớ những lúc cùng rau cà
Nhớ ánh nắng, nhớ hương mưa
Nhớ những giọt sương lạnh leo”
Cũng có những bài thơ kéo dài hàng nghìn câu, như 'Đoạn trường tân thanh' của Nguyễn Du (ví dụ như 3253 câu, trong đó có 1627 câu lục và 1627 câu bát). Số câu trong một bài thơ phụ thuộc vào ý đồ của tác giả và nội dung truyện.
Trong thơ Lục bát, mặc dù không bị ràng buộc bởi những luật vần nghiêm ngặt như thơ Đường luật, nhưng vẫn cần phải đảm bảo một số yếu tố cơ bản. Câu cuối của câu lục phải vần với câu thứ sáu của câu bát, và ngược lại. Ví dụ, trong thơ “Việt Bắc” của Tố Hữu:
“Quay về, ta có nhớ chăng?
Năm mười lăm với hồn nhiên mặn nồng.
Quay về, ta có nhớ không
Nhìn núi nhớ sông, nguồn nhớ cây'
Những dòng thơ trên thể hiện tình cảm sâu lắng của nhà thơ Tố Hữu đối với Việt Bắc. Đặc biệt, chúng ta chú ý đến cách gieo vần trong bốn câu thơ này. Câu cuối của câu lục kết thúc bằng từ “ta”, và câu thứ tám của câu bát hiệp vần bằng từ “tha”. Tương tự, câu bát kết thúc với vần “ông”, câu cuối của câu lục hiệp vần với từ “không”. Nhờ những quy tắc này, thơ Lục bát trở nên dễ nhớ, dễ hiểu.
Về âm điệu của thơ Lục bát, ta thấy rằng chữ thứ hai và chữ thứ sáu của câu bát đều là vần bằng, nhưng chúng không cùng một thanh. Nếu chữ thứ sáu thuộc thanh không dấu (phù bình), thì chữ thứ tám phải thuộc thanh trầm bình. Ví dụ cụ thể như trong bài ca dao sau:
“Sen nở giữa đầm thanh bình
Nhị vàng bông trắng, lá xanh chen lấn
Lá xanh nhị vàng bông trắng
Mùi bùn không, gần bùn mà chẳng hôi”
Tóm lại, chúng ta đã nắm được định nghĩa và các đặc điểm cơ bản của thơ Lục bát. Qua đó, ta cũng hiểu được cách mà các nhà thơ sáng tạo, thể hiện tài năng và tư duy trong việc viết thơ.
Thuyết minh về thể thơ lục bát - Mẫu 3
Lục bát là một trong hai thể loại thơ chính của Việt Nam (lục bát và song thất lục bát). Thể thơ này đã gắn bó với dân tộc Việt hàng nhiều thế kỷ qua. Nó thấm đẫm trong tâm hồn Việt qua ca dao, đồng dao và những bài thơ ru con. Ngày nay, thơ lục bát vẫn được những nhà thơ hiện đại sáng tạo, phát triển và giữ vững vị trí trong văn học Việt Nam. Thể thơ này đơn giản về quy luật, thường được sử dụng để diễn tả đa dạng cảm xúc trong lòng con người.
Thể thơ lục bát là một truyền thống lâu đời của dân tộc, bao gồm các cặp câu từ hai câu trở lên. Mỗi cặp câu gồm một câu sáu chữ (câu lục) và một câu tám chữ (câu bát), xen kẽ nhau. Số câu trong một bài thơ không có giới hạn nhất định. Thông thường, bài thơ bắt đầu với câu sáu và kết thúc với câu tám, nhưng cũng có trường hợp kết thúc với câu sáu để tạo sự nhẹ nhàng và duyên dáng. Tìm hiểu về thơ lục bát là tìm hiểu về luật và vần của nó, vì vậy luật về thanh rất quan trọng để tạo sự hài hòa trong thơ.
Luật về thanh trong thơ lục bát: Thơ lục bát gồm 2 câu lục và 2 câu bát, tuân theo quy tắc nhất, tam, ngũ bất luận; nhị, tứ, lục phân minh, giống như thơ Đường luật. Nghĩa là các tiếng thứ 1, 3, 5 trong câu có thể linh hoạt về thanh, trong khi các tiếng thứ 2, 4, 6 phải tuân theo luật chặt chẽ. Luật như sau:
Câu lục: Theo thứ tự tiếng thứ 2 - 4 - 6 là Bằng (B) - Trắc (T) - Bằng (B). Câu bát: Theo thứ tự tiếng thứ 2 - 4 - 6 - 8 là B - T - B - B
Ví dụ như:
“Đêm khuya qua huyện Nghi Xuân (B - T - B)
Lòng nhớ Cụ, thương thân nàng Kiều” (B - T - B - B)
(Tác giả: Tố Hữu)
Về việc phối thanh, chỉ có yêu cầu tiếng thứ tư phải là trắc, còn các tiếng thứ hai, thứ sáu, thứ tám phải là bằng. Tuy nhiên, trong câu tám, tiếng thứ sáu và thứ tám phải khác dấu. Nếu trước là dấu huyền thì sau phải là không dấu hoặc ngược lại:
“Một cây mọc cũng không là non
Ba cây chụm lại thành núi cao”
Tuy nhiên, đôi khi có thể tự do với tiếng thứ hai của câu lục hoặc câu bát, biến nó thành thanh trắc. Hoặc là câu lục giữ nguyên trong khi câu bát tuân theo thứ tự T - B - T - B. Những dòng thơ như vậy được gọi là lục bát biến thể.
Ví dụ:
“Xáo xáo nước bắt đầu trong (T - T - B)
Đừng làm nước đục buồn lòng cò con” (T - T - B - B)
Hoặc:
“Con cò chân lặn bờ sông
Gánh gạo nuôi chồng, tiếng khóc thấp thỏm” (T - B - T - B)
Về cách gieo vần trong thơ lục bát: Thơ lục bát có phương thức gieo vần khác biệt so với các thể thơ khác. Trong thơ lục bát, có nhiều vần được gieo qua nhiều câu thơ, không chỉ trong một câu, điều này tạo ra tính linh hoạt về vần trong thơ lục bát. Thông thường, thơ lục bát được gieo vần như sau: tiếng cuối của câu lục hiệp với tiếng thứ sáu của câu bát, tiếng thứ sáu của câu bát hiệp với tiếng cuối của câu lục tiếp theo; và tiếp tục như vậy cho đến hết bài lục bát.
“Trăm năm trong cõi người ấy
Chữ tài, chữ mệnh khéo là ghét nhau
Trải qua một cuộc bể dâu
Những điều thấy được mà lòng đau đớn”
Bên cạnh vần chân xuất hiện ở hai câu 6 và 8, thơ lục bát còn có vần lưng trong câu 8. Đối thanh trong thơ lục bát: Đây là sự phối hợp giữa thanh của hai tiếng thứ 6 (hoặc thứ 4) trong câu bát với tiếng cuối của câu đó. Nếu một tiếng mang thanh huyền thì tiếng kia phải là thanh ngang và ngược lại.
Ví dụ:
“Phận đàn bà đau đớn thay
Lời nói bạc mệnh cũng là lời chung
Ngoài việc phối thanh, còn có việc phối ý:
Dù gương mặt mới, lòng đã quen”
(Địa điểm kỳ diệu của những câu thơ)
Cách ngắt nhịp trong thơ lục bát: Thông thường, thơ lục bát sử dụng nhịp chẵn, như 2/2/2 hoặc 4/4, để diễn đạt các tình cảm như tình yêu, nỗi buồn...
“Người yêu ơi, người yêu
Đi đâu để lòng lạnh buồng”
Đôi khi, để nhấn mạnh, người ta chuyển sang sử dụng nhịp lẻ như 3/3. Ví dụ: Chồng này anh, vợ này em Chẳng qua là nợ đòi làm chi. Khi muốn thể hiện sự mạnh mẽ, đột ngột hoặc tâm trạng không ổn định, có thể sử dụng nhịp lẻ như 3/3, 1/5, 3/5... Thể thơ lục bát với cách gieo vần, phối thanh và ngắt nhịp đơn giản nhưng linh hoạt, phong phú và đa dạng, cho phép biểu đạt đa dạng. Hầu hết các ca dao được viết theo thể lục bát. Theo các nghiên cứu, hơn 90% lời thơ trong ca dao được sáng tác bằng thể thơ này.
Từ cấu trúc và ý nghĩa của nó, thơ lục bát vẫn là thể thơ truyền thống, với quy tắc rõ ràng về vần nhịp, số tiếng trong mỗi dòng thơ và chức năng của mỗi dòng. Tuy nhiên, đôi khi câu lục trở nên dài hơn câu bát, hoặc câu lục và câu bát trở nên quá dài, có thể sử dụng phối thanh, hiệp vần... Đó là dạng biến thể của lục bát. Sự biến đổi này phản ánh nhu cầu phong phú, đa dạng hóa cách biểu đạt tình cảm, phá vỡ hình thức 6/8 thông thường. Mặc dù thay đổi hình thức, âm luật và cách gieo vần của thể thơ lục bát vẫn giữ nguyên, là đặc điểm để nhận biết nó.
Bên cạnh lục bát truyền thống, còn có các dạng biến thể với hình thức gần giống nhưng có sự co giãn về âm tiết và vị trí của các hiệp vần. Hiện tượng này là điều đáng chú ý trong ca dao, có thể thấy ở một số trường hợp như: lục bát biến thể tăng hoặc giảm số tiếng.
Về mặt nội dung, thơ lục bát thường diễn đạt tâm trạng phức tạp của nhân vật trữ tình. Thường thì người dân sẽ sử dụng thể thơ này để thể hiện cảm xúc và tâm trạng của mình trong cuộc sống, tình yêu và các mối quan hệ. Do đó, lục bát là thể thơ chủ yếu trong ca dao vì khả năng diễn đạt đa dạng những cảm xúc như tình yêu, gia đình, xóm làng, làng quê, lao động, thiên nhiên... Thể thơ này hài hòa với nhịp đập của trái tim, lối sống của người Việt Nam. Ca dao, là tiếng nói của dân tộc, thường được truyền tải qua thể thơ lục bát. Nhiều nhà thơ nổi tiếng như Nguyễn Bính, Đồng Đức Bốn đã thành công với thể thơ này. Các tác phẩm vĩ đại như Truyện Kiều, Lục Vân Tiên đều được viết bằng lục bát. Các nhà thơ hiện đại như Bùi Giáng, Nguyễn Duy, Tố Hữu cũng đã thành công với lục bát trong sáng tác của mình.
Vì thế, lục bát đóng vai trò quan trọng trong văn học dân tộc.
Thuyết minh về thể thơ lục bát - Mẫu 4
Trong lịch sử thơ ca của dân tộc, lục bát được xem như biểu tượng tiêu biểu nhất của thể thơ Việt Nam, một thể thơ tuân thủ nghiêm ngặt các luật cổ điển.
Về nguồn gốc, thể thơ lục bát rất phổ biến trong ca dao và lời ăn tiếng dân tộc. Nhiều người đã nghĩ thể thơ này đã tồn tại từ lâu đời, nhưng thực ra, nó chỉ xuất hiện từ khoảng thế kỉ XVI đến XVII. Ban đầu là một loại nghệ thuật dân gian, lục bát sau đó trở thành một thể loại văn học và phát triển mạnh mẽ ở các thế kỉ sau.
Thể thơ này gắn bó chặt chẽ với văn hóa tinh thần của dân tộc. Từ việc nói về vần và vè đến các đối thoại, than thân, tranh đấu tuyên truyền, đều được thể hiện qua lục bát. Thơ lục bát đơn giản về quy luật, dễ làm, thường được dùng để diễn tả các cảm xúc trong lòng con người.
Một bài lục bát bao gồm ít nhất hai câu, mỗi cặp hai câu ghép lại với nhau. Mỗi cặp câu bao gồm một câu sáu tiếng và một câu tám tiếng, xen kẽ giữa câu lục và câu bát. Số câu không giới hạn, đây có thể xem là một loại thể thiên đều đặn.
Đơn vị cơ bản của thể thơ này là một tổ hợp hai câu sáu và tám tiếng. Số câu không hạn chế, về vần, thường là vần bằng, mỗi cặp hai câu thay đổi vần. Tiếng cuối câu sáu vần với tiếng thứ sáu của câu tám, và ngược lại. Như vậy, không chỉ có vần chân ở hai câu sáu và tám, mà còn có vần lưng trong câu tám. Ví dụ như bài ca dao sau:
“Cha như núi Thái Sơn
Mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Thờ mẹ kính cha một lòng
Chữ hiếu mới là đạo con tròn”
(Dân ca)
Luật thanh trong thơ lục bát: Thơ lục bát có hai câu chuẩn là câu lục và câu bát, giống như thơ Đường, nó tuân thủ quy tắc nhất, tam, ngũ bất luận; nhị, tứ, lục phân minh. Nghĩa là các tiếng thứ nhất, ba, năm trong câu có thể tự do về thanh, nhưng các tiếng thứ hai, thứ tư, thứ sáu phải theo quy luật chặt chẽ. Luật như sau:
Về phối thanh, chỉ yêu cầu các tiếng thứ tư phải là trắc, còn các tiếng thứ hai, thứ sáu, thứ tám phải là bằng. Tuy nhiên, trong câu tám, hai tiếng thứ sáu và thứ tám phải khác dấu. Nếu trước là dấu huyền thì sau phải là không dấu, hoặc ngược lại:
“Cỏ non xanh đến chân trời
Cành lê trắng nở một vài bông hoa”
(Truyện Kiều)
Cách gieo vần trong thơ lục bát: Thơ lục bát có cách gieo vần khác với các thơ khác. Có nhiều vần được gieo trong thơ nhiều câu chứ không phải là một vần, điều này tạo cho thơ lục bát tính linh hoạt về vần. Thể thơ lục bát thường được gieo vần bằng cách: tiếng cuối của câu lục kết hợp với tiếng thứ sáu của câu bát, tiếng thứ sáu của câu bát kết hợp với tiếng của câu lục tiếp; cứ như thế đến hết bài lục bát:
“Dáng ngẩn ngơ, nắng sương bay
Bước dìu dịu về dọc bên suối rì
Chiều buông, cây lá nghiêng xiêu
Bờ rêu mềm mại, nước xiết chảy trong
Nghe tiếng dòng nước reo vang
Con đường nhỏ khe khẽ xiết cung dốc nhỏ”
(Truyện Kiều)
Ngoài vần chân có ở hai câu 6 và 8 lại có cả vần lưng trong câu tám. Tiểu đối trong thơ lục bát: Đó là đối thanh trong hai tiếng thứ 6 (hoặc thứ 4) của câu bát với tiếng thứ 8 câu đó. Nếu tiếng này mang thanh huyền thì tiếng kia bắt buộc là thanh ngang và ngược lại:
“Thuyền chèo nổi, ghe bèo trôi
Lặng sóng trầm, cỏ dại mòi nhau mênh mông”
(Chinh phụ ngâm khúc)
Cách ngắt nhịp trong thơ lục bát: Thơ lục bát thông thường ngắt nhịp chẵn, là nhịp 2/2/2, hoặc 4/4 hoặc để diễn tả những tình cảm thương yêu, buồn đau…
“Một đêm, đèn một mình sáng
Áo đầm giọt lệ, tóc ướt nhẹ môi cười”
(Chinh phụ ngâm khúc)
Khi cần diễn đạt những điều trắc trở, khúc mắc, mạnh mẽ, đột ngột hay tâm trạng bất thường, bất định thì có thể chuyển sang nhịp lẻ 3/3, 1/5, 3/5…
“Thấu tình gửi ngàn lạy quân ái
Tơ duyên ngắn ngủi có giới hạn ấy chỉ.
Chia đều phận bạc như vôi?
Đành rồi nước chảy hoa trôi về làng đã lỡ.
Ôi Kim Lang! Hỡi Kim Lang!
Thôi, thiếp đã phụ chàng từ đây!”
(Truyện Kiều)
Ngoài ra, còn có thể loại lục bát biến thể. Luật thơ vẫn tuân thủ luật thơ lục bát nhưng số chữ hoặc cách gieo vần có thể thay đổi. Kiểu biến thể vốn phổ biến trong ca dao:
“Thương nhau ba bốn ngọn cũng trèo
Năm sáu dòng cũng lội, bảy tám đèo cũng qua”
(Ca dao)
Thơ lục bát thể hiện đa chiều tâm trạng của nhân vật trữ tình. Thường, người dân thường sử dụng thể loại thơ này để thể hiện nỗi lòng, tâm trạng trong cuộc sống, sinh hoạt, và tình yêu... Vì vậy, thể thơ chủ yếu trong ca dao vẫn là thể lục bát vì khả năng diễn đạt mọi cung bậc cảm xúc như: tình yêu trai gái, tình yêu gia đình, cuộc sống xóm làng, yêu đồng ruộng, đất đai, yêu lao động, yêu thiên nhiên...
Ở xã hội hiện đại, việc con người dành ít thời gian để thưởng thức thơ ca hơn. Do đó, việc bảo tồn và phát triển thơ lục bát trở nên càng quan trọng đối với con người.
Thuyết minh về thể thơ lục bát - Mẫu 5
Thể thơ lục bát được coi là biểu tượng của dân tộc, chứa đựng nhiều giá trị sâu sắc về truyền thống văn hóa của dân tộc.
Thể thơ này bao gồm ít nhất hai câu: một câu sáu (câu lục) và một câu tám (câu bát) nối tiếp nhau. Một bài thơ lục bát thường mở đầu bằng câu lục và kết thúc bằng câu bát. Số lượng câu trong một bài thơ lục bát không bị giới hạn nghiêm ngặt như các loại thơ khác.
“Dù ai nói ngả nói nghiêng,
Lòng ta vẫn vững như gốc cây chắc chắn”
Hay như:
“Cày đồng giữa buổi trưa nắng,
Mồ hôi rơi như mưa ruộng tưới xanh.”
“Ai ơi, cầm bát cơm đầy,
Hạt gạo thơm phức, vị ngọt ngào lòng.”
Hoặc có thể kéo dài thành hàng nghìn câu thơ, như kiệt tác “Đoạn trường tân thanh” (Truyện Kiều) của đại thi hào Nguyễn Du (gồm 3253 câu, trong đó có 1627 câu lục và 1627 câu bát). Hoặc như Truyện Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu với bản dịch được ưa chuộng nhất có 2082 câu thơ lục bát. Số lượng câu thơ hoàn toàn tùy thuộc vào nội dung và ý đồ mà nhà văn muốn truyền tải đến độc giả.
Về cách gieo vần, thơ lục bát không bị ràng buộc bởi luật lệ nghiêm ngặt như thể thơ Đường nhưng vẫn phải đảm bảo những yếu tố cơ bản. Cụ thể, trong một bài thơ Lục bát, câu thứ sáu của câu lục phải vần với câu cuối của câu bát. Tương tự, câu cuối của câu bát phải hiệp vần với câu cuối của câu lục. Có thể ví dụ như:
“Thôn Đoài nhớ thôn Đông,
Một người chín mong mười hồng một người.
Gió mưa là bệnh của trời,
Tương tư là bệnh của tôi ngóng chờ nàng.
Hai thôn đồng lại một làng,
Tại sao bên ấy không sang bên này?
Ngày qua ngày lại ngày qua,
Lá xanh đã đổi thành lá vàng.
Nói rằng trở lại bến giang,
Không sang cũng là chẳng đành.
Nhưng đây đầu đình bên kia,
Có xa xôi chăng mà tình xa xôi…”
(Tương tư, Nguyễn Bính)
Các cặp vần trong bài thơ là nàng - làng (chữ cuối câu 8 với chữ cuối câu 6), này - ngày (chữ cuối câu 6 với chữ cuối câu 8), vàng - giang (chữ cuối câu 8 với chữ cuối câu 6). Tất cả đều là vần chân.
Về thanh điệu của bài thơ lục bát, ta thấy chữ thứ hai và chữ thứ sáu của câu bát đều là vần bằng. Ví dụ cụ thể như trong bài ca dao sau:
“Người đi cấy công mênh mông,
Tôi đi cấy đợi dài vòng ngày tháng.
Trông trời, trông đất, trông mây,
Trông mưa, trông nắng, trông ngày, trông đêm.
Trông để chân vững lòng mềm,
Biển yên trời lặng lòng êm”
Các cặp vần trong câu bát, ở chữ thứ hai và thứ sáu, đều là vần bằng: nay - bề, mưa - đêm, yên - lòng.
Về cách ngắt nhịp, thơ lục bát thường ngắt nhịp ở các chữ 2/4/6 trong câu lục, và thường ngắt nhịp ở các chữ 2/4/6/8 trong câu bát (gọi là nhịp 2/2/2 và 2/2/2/2) tuy nhiên đó không phải là luật mà chỉ là thường thấy. Ví dụ trong một bài thơ sau:
“Trơ trơ đầu dòng bến Vân Sàng
Hỏi núi chờ người đã bao sương
Uốn éo đầu gành sóng mặt ba
Phá tung cửa động, chùa một Hang
Bóng mây thấp thoáng, Diên Hạo
Vách đá lờ mờ, nét Phạm Trương
Cũng muốn bể dâu, bàn chuyện xưa
Gió thu hiu hắt, hoa vàng bóng”
(Núi Dục Thúy, Nguyễn Đình Giác)
Thể thơ lục bát quả thật là một thể thơ tiêu biểu của dân tộc. Thể thơ không chỉ đóng góp về giá trị nghệ thuật mà còn góp phần thể hiện giá trị về nội dung.
Thuyết minh về thể thơ lục bát - Mẫu 6
Để có văn học phong phú như bây giờ, chúng ta phải nhớ đến công lao của các nhà thơ, nhà văn từ thuở xưa cho đến hiện đại. Nội dung của tác phẩm là phần hồn và hình thức thơ giúp chuyển tải cho người đọc sự tinh túy của tác phẩm. Trong các thể thơ nổi tiếng của nước nhà phải kể đến thể thơ lục bát.
Văn học Việt Nam hình thành và phát triển hàng ngàn năm và tiếp thu nhiều từ văn chương của Trung Quốc. Trải qua nhiều thế hệ, người Việt tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại, chọn lọc sáng tạo để tạo ra sự phù hợp với quốc gia, dân tộc. Đối với thể loại và hình thức thơ, người Việt tiếp thu tinh hoa của Trung Hoa như thơ Cổ Phong, thơ Đường Luật làm đa dạng văn học. Ngoài ra, ông cha còn tạo ra thể thơ độc đáo, thể hiện tinh hóa dân tộc Việt Nam, các thể thơ Song thất lục bát hay thơ Lục bát gần gũi với nhiều người. Thể thơ Lục bát được nhiều nhà thơ trong nước sử dụng trong các tác phẩm nhằm chuyển tải nội dung đến người đọc hiệu quả.
Thơ lục bát đặc trưng dễ nhận ra với câu đầu sáu (câu lục) và câu sau tám (câu bát). Bài thơ lục bát mở đầu bằng câu lục và kết thúc bằng câu bát. Trong bài thơ không bị giới hạn cứng nhắc như các thể thơ khác. Thơ lục bát có thể hai bốn hoặc sáu câu như:
“Con cò bên bờ sông lặn lội
Thú nuôi bằng lam, đàn con
Năm tháng cha mẹ phai mòn
Sớm chiều vất vả, gầy gò khô héo”
Có những bài thơ dài hàng ngàn câu như “Đoạn trường tân thanh” (Truyện Kiều) của Nguyễn Du. Số lượng câu thơ không có giới hạn cố định mà phụ thuộc vào tác giả. Trong thể thơ lục bát, cách gieo vần rất đặc biệt. Trong mỗi bài thơ Lục bát, câu cuối của câu lục phải vần với câu thứ sáu của câu bát. Tương tự như vậy, câu cuối của câu bát cũng phải hiệp vần với câu cuối của câu lục ở trên. Cách gieo vần này có đặc điểm riêng không giống với các thể thơ khác. Về thanh điệu của thơ Lục bát, tiếng vần thường mang thanh bằng:
“Trời cao có đám mây xanh
Mây trắng nằm giữa dòng mây vàng.
Mong anh sẽ lấy được nàng,
Cho anh mua gạch Bát Tràng xây nhà”
Hoặc
“Trèo cây khế suốt nửa ngày
Làm ai chua xót lòng này khế ơi”
Thanh bằng là nét đặc trưng trong thơ lục bát, kết hợp với vần /ay/ tạo ra cảm giác đau lòng. Thơ lục bát còn thể hiện sự phối hợp linh hoạt giữa bổng trầm của tiếng thứ sáu và thứ tám trong bát, tạo ra âm điệu mềm mại và thanh thoát.
Thơ lục bát là biểu tượng của văn hóa dân tộc, tự do và phóng khoáng, không quá nghiêm ngặt như thơ Đường luật. Tuy vậy, nó vẫn giữ được các yếu tố cơ bản để truyền đạt nội dung bài thơ một cách hiệu quả, dễ nhớ và dễ đọc.
Thuyết minh về thể thơ lục bát - Mẫu 7
Thơ lục bát đã trở thành một phần không thể thiếu trong đời sống văn hóa của người Việt, xuất hiện và tồn tại hàng ngàn năm qua. Từ khi còn bé, ta đã nghe về thơ lục bát qua lời ru êm đềm của bà, của mẹ, làm phong phú tâm hồn và tạo nên đời sống văn hóa của chúng ta.
Thể thơ lục bát bắt nguồn từ các bài ca dao, dân ca và đã được phát triển qua các tác phẩm thơ lục bát nổi tiếng như Truyện Kiều của Nguyễn Du. Trong thời kỳ hiện đại, thơ lục bát vẫn tiếp tục phát triển qua các tác phẩm của nhiều nhà thơ như Nguyễn Bính, Tố Hữu, Xuân Diệu, Nguyễn Duy, Trần Đăng Khoa…, chứng tỏ sức sống bền bỉ của nó trong lòng người đọc.
Đơn vị cơ bản của thơ lục bát bao gồm cặp câu: Câu lục (sáu tiếng) và câu bát (tám tiếng). Số câu trong một bài không giới hạn, ít nhất là hai, có thể lên đến hàng ngàn, vài ngàn câu như trong các truyện thơ Nôm, điển hình nhất là Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du. Trong ca dao, có những bài chỉ gồm hai câu nhưng vẫn đủ sức diễn đạt, tóm tắt một nội dung, một vấn đề xã hội, hoặc một trạng thái tình cảm của con người. Bên cạnh đó là những truyện thơ lục bát trường thiên, kể về hàng loạt biến cố trong cuộc đời dài của nhân vật. Điều này chứng tỏ độ dài ngắn dài của thơ lục bát phụ thuộc hoàn toàn vào ý đồ của người sáng tác.
Vần trong thơ lục bát chia thành hai loại: Vần lưng và vần chân. Hai dòng lục bát hiệp vần theo vần lưng có nghĩa là tiếng thứ sáu của câu lục vần với tiếng thứ sáu của câu bát. Nếu kéo dài thêm, tiếng thứ tám của câu bát lại vần với tiếng thứ sáu của câu lục bên dưới, đó là vần chân. Ví dụ:
“Ta về mình có nhớ ta
Ta về, ta nhớ những hoa cùng người.
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”
(Việt Bắc, Tố Hữu)
Ngoài dạng lục bát gốc như trên, còn có dạng biến thể một chút bằng cách thêm bớt một số tiếng hoặc điều chỉnh về cách hiệp vần hoặc phối thanh.
Ví dụ:
“Cơm ăn mỗi bữa lưng lưng,
Uống nước cầm chừng, để dạ thương em”
(Ca dao)
Tiếng thứ sáu của câu lục vần với tiếng thứ tư của câu bát, tuy thế vẫn thấy thanh thoát khi đọc. Ví dụ thêm chữ như câu ca dao sau đây:
“Gió đưa gió đẩy về rẫy ăn còng,
Về sông ăn cá, về đồng ăn cua”
(Ca dao)
Câu lục đã được bổ sung hai tiếng (gió đẩy). Nếu loại bỏ hai tiếng này, hai câu lục bát trên sẽ trở lại dạng nguyên thể về vần, vẫn tuân theo quy luật hiệp vần lưng.
Quy luật phối thanh của thơ lục bát rất linh hoạt, uyển chuyển. Thường thì các tiếng ở vị trí thứ hai, bốn, sáu, tám đều có thanh bằng, vị trí thứ tư là thanh trắc. Còn các tiếng ở vị trí lẻ một, ba, năm, bảy có thể là bằng hoặc trắc đều được. Tiếng thứ hai thanh trắc, tiếng thứ tư thanh bằng, khác với cách phối thanh của câu lục thông thường.
Nhịp trong thơ lục bát phần lớn là nhịp chẵn, tạo nên âm điệu êm dịu, thong thả, phù hợp cho việc hát ru, hát ngâm.
Ví dụ:
'Vì mây trôi qua núi lên trời,
Vì gió thổi lay hoa cười với trăng'
Hoặc:
'Gió sao thoảng thoảng sau lưng
Dạ sao cô đơn nhớ người dưng thế này?'
(Ca dao)
Tuy nhiên, khi muốn diễn đạt một ý nghĩ, một tình cảm cụ thể nào đó, ta có thể điều chỉnh nhịp thơ sao cho phù hợp. Ví dụ như trong đoạn Kiều trao lời với Hoạn Thư khi Kiều bày tỏ lòng biết ơn và oán trách:
“Dễ dàng như nụ cười hoa,
Càng chua cay, càng gieo oan trái nhiều”
Rõ ràng là khi Thúy Kiều nhắc đến sự đau đớn của sự đố kỵ, ghen tuông, cô đã thể hiện một cách rất rõ ràng, chân thực, và sâu sắc.
Thơ lục bát đã trở thành một phần không thể thiếu của tinh thần dân tộc Việt Nam. Điều đáng khen ngợi về nó là việc kết hợp tuyệt vời của ngôn ngữ tiếng Việt. Với ưu điểm về vần, phối thanh, và ngắt nhịp, thơ lục bát trở nên dễ nhớ và có thể thấu hiểu sâu sắc vào tâm hồn của người đọc.
Thuyết minh về thể thơ lục bát - Mẫu 8
Lục bát, một trong hai thể loại thơ chính của Việt Nam (kèm theo song thất lục bát), đã từ lâu trở thành một biểu tượng của văn hóa thơ ca dân tộc. Thơ lục bát đã ghi dấu tình yêu và tâm hồn của người Việt qua các ca dao, đồng dao và bài hát ru. Ngày nay, thơ lục bát vẫn tiếp tục được các nhà thơ hiện đại tiếp thu, phát triển, và giữ vững vị trí quan trọng trong văn học đương đại của Việt Nam. Thơ lục bát rất đơn giản trong quy tắc, dễ sáng tạo, và thường được sử dụng để thể hiện các cảm xúc đa dạng trong tâm hồn con người.
Xác định nguồn gốc chính xác của thể thơ lục bát từ bao giờ là một thách thức khó khăn vì không có tài liệu nào ghi chép điều này. Bắt nguồn từ ca dao dân gian và những lời ca hát của những người dân thường, thể thơ lục bát dần dần hình thành trong văn hóa nghệ thuật của dân tộc. Có giả thuyết cho rằng, từ những bài ca và lời ca hát đồng quê, người Việt đã bắt đầu nhận ra vẻ đẹp của thể thơ lục bát, từ đó phát triển và hoàn thiện thể loại thơ này từ thế kỷ XVI trở đi.
Tiếp tục phát triển theo thời gian, thể thơ lục bát đã đạt được những thành tựu vĩ đại vào cuối thế kỷ XVII và thế kỷ XVIII, với tác phẩm xuất sắc nhất là Truyện Kiều của Nguyễn Du. Qua Truyện Kiều, thể thơ lục bát đã chứng minh khả năng tuyệt vời trong việc diễn đạt sâu sắc về tâm trạng con người.
Một bài thơ lục bát bao gồm ít nhất 2 câu: một câu lục (6 tiếng) và một câu bát (8 tiếng), và không có giới hạn về số lượng câu trong một bài thơ.
Giống như thơ Đường, thơ lục bát tuân theo nguyên tắc 'nhất, tam, ngũ bất luận; nhị, tứ, lục phân minh'. Nghĩa là các tiếng thứ nhất, ba, và năm trong mỗi câu có thể tự do về thanh điệu, trong khi các tiếng thứ hai, bốn, và sáu phải tuân thủ nguyên tắc chặt chẽ. Quy tắc này như sau:
Câu số | Vần | |||||||
Câu lục | 0 | B | 0 | T | 0 | B(vần) | ||
Câu bát | 0 | B | 0 | T | 0 | B(vần) | 0 | B |
Chữ thứ | 1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 |
---|
Ví dụ:
Một cây chẳng thể thành rừng
Nhưng ba cây góp lại núi vững chãi.
(Ca dao)
Chỉ cần tiếng thứ tư phải là trắc, tiếng thứ hai, thứ sáu, thứ tám phải là bằng, nhưng trong câu tám, tiếng thứ sáu và thứ tám phải có dấu khác nhau, nếu trước là dấu huyền thì sau phải là không dấu hoặc ngược lại.
Trong thể thơ lục bát biến thể, các quy định trên có thể thay đổi một chút. Trước hết, số từ có thể tăng thêm và vần lưng cũng có thể được điều chỉnh theo:
“Tiền của vốn dĩ khó đếm
Ông quan giữa chốn dân quên nằm lòng.”
Thơ lục bát có cách gieo vần khác biệt so với các thể thơ khác. Có nhiều vần được gieo trong một bài thơ, không chỉ một vần như các thể thơ khác, điều này làm cho thể thơ lục bát trở nên linh hoạt về vần. Thường thì, thơ lục bát được gieo vần theo cách sau: tiếng cuối của câu lục hiệp với tiếng thứ sáu của câu bát, và tiếng thứ sáu của câu bát hiệp với tiếng của câu lục tiếp theo; và tiếp tục như vậy cho đến hết bài lục bát.
Hơn nữa, có thể gieo vần theo kiểu trắc, cấu trúc trắc bằng trong tổ hợp hai câu sáu tám, do đó, cũng có sự biến đổi:
Chăm chút con nhện nho nhỏ,
Khi lớn tụ lại kết hoa mạng nhau.
(Ca dao)
Vần lưng có thể ở tiếng thứ hai, đặc biệt là ở tiếng thứ tư, lúc đó tiếng thứ tư chuyển sang thanh bằng, và tiếng thứ sáu tiếp theo phải chuyển sang thanh trắc:
Người Tây cứ lờ mờ loài,
Có trò này đợi chôn sống mày đây.
(Tố Hữu, Phá đường)
Đỉnh núi đâu chẳng cao rồi,
Núi khuất mặt trời chẳng thấy người yêu.
(Ca dao)
Vậy, có thể thấy, thể thơ lục bát vẫn là thể thơ cổ truyền, chỉnh chu với các quy định rõ ràng về vần nhịp, số tiếng mỗi dòng thơ, và chức năng của mỗi câu trong thể thơ này.
Thể thơ lục bát phản ánh và tóm tắt một cách trung thực các phẩm chất thẩm mỹ của tiếng Việt. Với cách gieo vần, phối thanh, và ngắt nhịp linh hoạt, phong phú và đa dạng, nó có khả năng diễn đạt mọi cảm xúc như tình yêu, gia đình, làng xóm, nghề nghiệp, thiên nhiên…
Lục bát là công cụ phổ biến để người Việt thể hiện tâm sự, chia sẻ tâm trạng, làm dâng cao tinh thần. Liên kết với tiếng Việt, với tâm hồn Việt, thơ lục bát đã trở thành biểu tượng văn hóa dân tộc. Nếu tâm hồn của một dân tộc thường thường được thể hiện qua thơ ca, thì lục bát là nơi mà tâm hồn dân tộc Việt đã tìm về, nơi mà nó hiểu biết và bày tỏ nhất, sâu nhất. Sức mạnh biểu đạt của thơ lục bát vô cùng kỳ diệu. Chỉ hai câu, mười bốn tiếng, nhưng một cặp lục bát có thể thể hiện vô số khía cạnh. Nó luôn đủ sức kể chuyện:
Đêm qua tắm nước ở góc sân
Quên lơ đã chiếc áo sen thơm
(Ca dao)
Nó vô cùng giàu có về khả năng thể hiện tình cảm:
Đâu rồi, bưng bát cơm nồng
Nồng thơm mà hạt đắng cay nghìn phần.
(Ca dao)
Nó sở hữu khả năng lập luận mạnh mẽ:
Trăm năm sống giữa thế gian
Chữ tài, chữ mệnh khéo là ghét nhau.
(Nguyễn Du)
Nó đáp ứng mọi nhu cầu ca ngợi:
Một ấu thương, hai ấu thương
Bốn chân giường gãy, còn một ba.
(Ca dao)
Trong thời đại toàn cầu hóa như ngày nay, có vẻ như có hai quan điểm trái ngược về thể thơ lục bát. Nhiều người lạnh nhạt, nghi ngờ khả năng của lục bát. Họ định kiến rằng lục bát quá hạn chế về luật vần, luật thanh, và nhịp điệu; nó đơn điệu, phẳng phiu, lạc hậu. Họ nhanh chóng kết luận rằng lục bát chỉ có thể thể hiện được những cảm xúc quen thuộc của người Việt truyền thống. Trái lại, họ nghĩ rằng lục bát sẽ khó khăn trong việc đáp ứng nhịp biến động phức tạp của tư duy thơ hiện đại. Thậm chí, có người coi lục bát là một rào cản đối với những cách tiếp cận nghệ thuật mới mẻ. Và họ cố gắng tránh xa lục bát để theo đuổi các dạng thơ khác.
Tuy nhiên, ngược lại, nhiều người đã nhận ra những lợi ích đặc biệt của lục bát. Họ quay về với lục bát. Họ trân trọng, chăm sóc. Họ cải tiến, họ sáng tạo, để chứng minh tấm lòng của người đương thời trong thể thơ truyền thống của dân tộc. Họ sử dụng lục bát như một công cụ gần gũi để diễn đạt những suy tư sâu sắc nhất của lòng người. Đọc những bài lục bát của thế kỷ trước, có thể thấy rằng, ngày càng trở về sau, lục bát trở nên trẻ trung hơn, hiện đại hơn so với thời điểm đầu. Điều này là bằng chứng rõ ràng cho thấy lục bát vẫn tồn tại, vẫn kết nối mạch máu của tâm hồn Việt trên con đường hiện đại. Sự trân trọng lục bát cũng là một tiêu chí để đo lường văn hóa thơ của người Việt.
Cho đến khi cây tre còn xanh, sen vẫn thơm, cho đến khi áo dài vẫn bay phơ phất, tiếng đàn bầu vẫn vang lên, thì những điệu lục bát vẫn tiếp tục nảy nở trên đất nước này. Thể thơ lục bát vẫn mãi là một tài sản quý giá của văn hóa Việt. Cho đến khi thế giới hiểu rõ vẻ đẹp của lục bát, cho đến khi thế giới chấp nhận được vẻ đẹp của lục bát, thì văn thơ Việt vẫn chưa thực sự hoàn thiện sứ mệnh của mình.
Thuyết minh về thể thơ lục bát - Mẫu 9
Thơ lục bát là một phần không thể thiếu của văn hóa dân tộc Việt Nam. Chúng ta quen thuộc với lục bát bởi nó là những bài ca dao mà chúng ta nghe từ ông bà, là những lời ru, những khúc hát mà mẹ ru chúng ta vào giấc ngủ.
Lục bát là một trong hai dạng thơ chính của Việt Nam (lục bát và song thất lục bát). Thể thơ này đã được truyền bá và phát triển trong hàng trăm năm qua. Lục bát đã thấm đẫm vào tâm hồn của người Việt qua ca dao, đồng dao và bài ru con. Ngày nay, thơ lục bát vẫn được các nhà thơ hiện đại tiếp tục sáng tạo và giữ vững vị thế quan trọng trong văn học Việt Nam hiện đại. Thơ lục bát có luật vần giản dị, dễ làm và thường được sử dụng để diễn đạt những tâm trạng đa dạng trong con người.
Thơ lục bát có nguồn gốc lịch sử sâu xa, là một phần không thể thiếu của văn hóa dân tộc. Thơ lục bát gồm ít nhất hai câu, mỗi cặp câu gồm một câu lục (6 tiếng) và một câu bát (8 tiếng). Các câu này xen kẽ nhau, và số lượng câu không bị giới hạn. Luật về thanh giúp cho thơ trở nên hài hoà, còn vần thì giúp kết nối các câu thơ lại với nhau.
Thơ lục bát tuân theo luật vần nhất, tam, ngũ bất luận, nhị, tứ, lục phân minh, tương tự như thơ Đường luật. Các tiếng thứ nhất, ba, và năm trong mỗi câu có thể tự do về thanh, trong khi các tiếng thứ hai, tư, và sáu phải tuân theo quy tắc nghiêm ngặt. Ở câu lục, tiếng thứ hai, ba, và năm tuân theo thứ tự Bằng-Trắc-Bằng, trong khi ở câu bát, tiếng thứ hai, ba, năm, và bảy tuân theo thứ tự B-T-B-B.
'Vườn dâu xanh ngắt một màu
Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai'
Tuy nhiên, đôi khi có thể tự do với tiếng thứ hai trong câu lục hoặc câu bát, biến nó thành thanh trắc. Hoặc có thể giữ nguyên câu lục nhưng thay đổi câu bát theo thứ tự Trắc-Bằng-Trắc-Bằng, những bài thơ như vậy được gọi là lục bát biến thể.
'Xáo nước có thể xáo trong
Nhưng đừng xáo nước đục, lòng sẽ đau như vậy'
Thơ lục bát sử dụng phương pháp gieo vần khác biệt so với các dạng thơ khác. Thường sẽ có nhiều vần được sử dụng trong một bài thơ, không chỉ giới hạn ở một vần duy nhất. Điều này làm cho thơ lục bát trở nên linh hoạt về mặt vần. Tiếng thứ sáu của câu lục thường vần với tiếng thứ sáu của câu bát liền kề, và tiếng thứ tám của câu bát đó sẽ vần với tiếng thứ sáu của câu lục tiếp theo.
'Trong lòng đôi ả tố nga
Thúy Kiều là chị, còn Thúy Vân là em
Mai cốt cách, tuyết tinh thần
Mỗi người một phong cách, đều tuyệt vời'
Thường thì thơ lục bát có nhịp chẵn, là 2/2/2, nhưng đôi khi để tăng sự nhấn mạnh, người ta chuyển sang nhịp lẻ, đó là 3/3. Nhịp thơ giúp người đọc và người nghe cảm nhận thơ một cách chính xác hơn:
'Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mê đắm không ngừng'
Thơ lục bát mềm mại, linh hoạt, khả năng thể hiện tâm trạng đa chiều của nhân vật trữ tình. Trong xã hội truyền thống, người dân thường sử dụng thể loại thơ này để diễn đạt những suy tư, tình cảm sâu thẳm của mình. Mỗi dân tộc đều có một loại thơ, một âm nhạc phản ánh phong cách sống của mình. Lục bát là thể thơ hài hoà với nhịp đập của trái tim, triết lý sống của người Việt. Ca dao là biểu tượng thơ ca của dân tộc Việt Nam, xuất hiện không ngừng trong các sáng tác bất hủ của dân tộc. Những nhà thơ hiện đại đã thành công trong việc sáng tạo và áp dụng thể lục bát trong tác phẩm của mình để diễn đạt cảm xúc, tình cảm của mình.
Thơ lục bát nhẹ nhàng, chân phương như cánh hoa hàm tiếu hé nở mang lại hương thơm cho cuộc sống. Ngày hôm nay và trong tương lai, thể thơ lục bát luôn tự hào là ngọn cờ thơ ca của dân tộc Việt Nam.