TOP 6 bài Thuyết minh về Văn Miếu Quốc Tử Giám xuất sắc nhất, giúp học sinh lớp 9 hiểu sâu hơn về lịch sử, nguồn gốc, và ý nghĩa lịch sử của Văn Miếu Quốc Tử Giám để viết bài văn thuyết minh tốt nhất.
Văn Miếu Quốc Tử Giám là di tích lịch sử quan trọng nhất của Việt Nam, tọa lạc tại trung tâm thủ đô Hà Nội. Hãy cùng Mytour khám phá nhiều thông tin hữu ích để viết bài thuyết minh về một nét đặc sắc trong di tích lịch sử quê hương.
Dàn đề thuyết minh về Văn Miếu Quốc Tử Giám
I. Khởi đầu
- Văn Miếu - Quốc Tử Giám được biết đến như một trung tâm di tích văn hóa đa dạng và phong phú nhất tại Hà Nội.
- Nơi mà du khách trong và ngoài nước thường đến tham quan, đồng thời cũng là nơi vinh danh những học sinh ưu tú và tổ chức các sự kiện văn hóa như hội thơ hàng năm vào ngày rằm tháng giêng.
II. Nội dung chính
1. Nguồn gốc, xuất xứ
- Văn Miếu được xây dựng từ năm (1070) tức năm Thần Vũ thứ hai đời Lý Thánh Tông.
- Năm 1076. Lý Nhân Tông cho lập trường Quốc Tử Giám ở bên cạnh Văn Miếu có thể coi đây là trường đại học đầu tiên ở Việt Nam.
- Năm 1253, vua Trần Thái Tông đổi Quốc Tử Giám thành Quốc Học Viện cho mở rộng và thu nhận cả con cái các nhà thường dân có sức học xuất sắc. Chức năng trường Quốc học ngày càng nổi bật hơn chức năng của một nơi tế lễ..
- Đời Trần Minh Tông, Chu Văn An được cử làm quan Quốc Tử giám Tư nghiệp (hiệu trưởng) và thầy dạy trực tiếp của các hoàng tử. Năm 1370 ông mất được vua Trần Nghệ Tông cho thờ ở Văn Miếu bên cạnh Khổng Tử.
- Sang thời Hậu Lê, Nho giáo rất thịnh hành.
- Vào năm 1484, Lê Thánh Tông cho dựng bia tiến sĩ của những người thi đỗ tiến sĩ từ khoa thi 1442 trở đi (chủ trương đã đề ra năm 1442 nhưng chưa thực hiện được). Mỗi khoa, một tấm bia đặt trên lưng rùa. Tới năm đó, nhà Lê đã tổ chức được 12 khoa thi cao cấp) Lê Thánh Tông (1460 - 1497) đã tổ chức đều đặn cứ ba năm một lần, đúng 12 khoa thi).
- Năm 1762, Lê Hiển Tông cho sửa lại là Quốc Tử Giám - cơ sở đào tạo giáo dục cao cấp của triều đình.
- Đời nhà Nguyễn, Quốc Tử Giám lập tại Huế.
- Năm 1802, vua Gia Long ấn định đây là Văn Miếu - Hà Nội và cho xây dựng Khuê Văn Các, với một chức năng duy nhất là nơi thờ tự Thánh hiền. Trường Giám cũ ở phía sau Văn Miếu lấy làm nhà Khải thánh để thờ cha mẹ Khổng Tử.
- Đầu năm 1947, giặc Pháp nã đạn đại bác làm đổ sập căn nhà, chỉ còn cái nền với hai cột đá và 4 nghiên đá. Ngày nay, ngôi nhà này đã được phục dựng theo kiến trúc cùng thời với quần thể các công trình còn lại.
2. Kết cấu
- Nhà Thái học có ba gian, có tường nang, lợp bằng ngói đồng.
- Nhà giảng dạy ở phía đông và tây hai dãy đều 14 gian.
- Phòng học của học sinh tam xá đều ba dãy, mỗi dãy 25 gian, mỗi gian 2 người.
- Khuôn viên được bao bọc bởi bốn bức tường xây bằng gạch Bát Tràng.
- Quần thể kiến trúc Văn Miếu - Quốc Tử Giám được bố cục đăng đối từng Khu, từng lớp theo trục Bắc Nam, mô phỏng tổng thể quy hoạch khu Văn Miếu thờ Khổng Tử ở quê hương ông tại Khúc Phụ, Sơn Đông, Trung Quốc.
- Phía trước Văn Miếu có một hồ lớn gọi là hồ Văn Chương, tên cũ xưa gọi là Thái Hồ. Giữa hồ có gò Kim Châu, trước đây có lầu để ngắm cảnh.
- Ngoài cổng chính có tứ trụ, hai bên tả hữu có bia “Hạ Mã”, xung quanh khu vực xây tường cao bao quanh.
- Cổng Văn Miếu xây kiểu Tam quan, trên có 3 chữ “Văn Miếu Môn” kiểu chữ Hán cổ xưa.
- Trong Văn miếu chia làm 5 khu vực rõ rệt, mỗi khu vực đều có tường ngăn cách và cổng đi lại liên hệ với nhau:
- Khu thứ nhất: bắt đầu với cổng chính Văn Miếu Môn đi đến cổng Đại Trung Mòn, hai bên có cửa nhỏ là Thành Đức Mòn và Đạt Tài Môn.
- Khu thứ hai: từ Đại Trung Môn vào đến Khuê Văn Các (do Đức Tiền Quân Tổng trấn Bắc Thành Nguyễn Văn Thành cho xây năm 1805).
- Khu thứ ba: gồm hồ nước Thiên Quang Tỉnh (nghĩa là giếng soi ánh mặt trời).
- Khu thứ tư: là khu trung tâm và là kiến trúc chủ yếu của Văn Miếu, gồm hai công trình lớn bố cục song song và nối tiếp nhau. Toà ngoài nhà là Bái đường, toả trong là Thượng cung.
- Khu thứ năm: là khu Thái Học, trước kia đã có một thời kỳ đây là khu đền Khải thánh, thờ bố mẹ Khổng Tử, nhưng đã bị phá huỷ. Khu nhà Thái Học mới được xây dựng lại năm 2000.
- Trong Văn Miếu có tượng Khổng Tử và Tứ Phối (Nhan Tử, Tăng Tử, Tử Tư, Mạnh Tử).
- Ở điện thờ Khổng Tử có hai cặp hạc cưỡi trên lưng rùa.
- Hình ảnh hạc chầu trên lưng rùa biểu hiện của sự hài hoà giữa trời và đất. giữa hai thái cực âm - dương.
3. Ý nghĩa
- Là hình ảnh tiêu biểu của Hà Nội.
- Là nơi tượng trưng cho truyền thống hiếu học, tôn sư trọng đạo của dân tộc Việt Nam.
III. Tổng kết
- Vào tháng 3/2010, 82 tấm bia Tiến sĩ thời triều Lê - Mạc tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám đã được UNESCO công nhận là Di sản tư liệu thế giới khu vực châu Á - Thái Bình Dương.
- Vào ngày 27/7/2011, 82 tấm bia Tiến sĩ lại được UNESCO công nhận là Di sản tư liệu thế giới trên phạm vi toàn cầu.
- Di tích này là minh chứng rõ ràng cho sự phong phú và sâu sắc của văn hóa và lịch sử dân tộc Việt Nam, vinh danh nền giáo dục và truyền thống tôn sư trọng đạo của dân tộc.
Thuyết minh về Văn Miếu Quốc Tử Giám - Mẫu 1
Văn Miếu Quốc Tử Giám, một trong những di tích lịch sử quan trọng nhất của Việt Nam, đã được xây dựng từ thời Lý Thánh Tông năm 1070. Đây không chỉ là nơi tổ chức học tập mà còn là biểu tượng của sự tài trí và kiến thức của nhân dân. Với sự phát triển qua nhiều thế kỷ, đây vẫn là một điểm đến quan trọng thu hút đông đảo du khách khi ghé thăm Hà Nội ngày nay.
“Năm canh tuất, niên hiệu Thần Vũ thứ 2 đời Lý Thánh Tông, vào mùa thu tháng 8, Văn Miếu được xây dựng và tượng Khổng Tử, Chu Công, Tứ Phối, Thất Thập Nhị Hiền được đắp và vẽ. Hoàng thái tử đến đây học tập.” Từ những nền tảng ấy, Văn Miếu Quốc Tử Giám đã trải qua nhiều thăng trầm và tiếp tục phát triển, đặc biệt từ năm 13/7/1999 khi thành phố Hà Nội khởi công xây dựng nhà thái học trong khuôn viên của di tích. Đây đã là nơi sản sinh ra nhiều tài năng cho đất nước. Với hàng trăm bia ghi tên các Tiến sĩ được xây dựng, Văn Miếu Quốc Tử Giám không chỉ là nơi tôn vinh những nhân tài mà còn là biểu tượng của sự cao cả và văn minh.
Di sản lịch sử của Văn Miếu bao gồm diện tích 54.331m2, bao gồm Hồ Văn, vườn giám và nội tự, được bao quanh bởi tường gạch vồ. Phía trước cổng lớn là tứ trụ, hai bên tứ trụ có hai bia “Hạ mã”. Nội tự được chia thành năm khu vực, mỗi khu vực được sắp xếp để đặt bia và thờ phụng các học giả tài ba khắp đất nước. Khi du khách thăm khu bia đá, họ có thể tìm thấy tên của nhiều danh nhân từng được nhắc đến trong sách sử Việt Nam như: nhà sử học Ngô Sĩ Liên - Tiến sĩ năm 1442 đã soạn bộ sách Đại Việt sử ký toàn thư hay nhà bác học Lê Quý Đôn,…
Thiên hạ có thể mở rộng hiểu biết về sự nghiệp của các sử thần Việt Nam và mối quan hệ đa phương giữa các quốc gia trong khu vực Đông Nam Á thông qua các tấm bia. Đây được coi là những tác phẩm quý báu, góp phần làm nên truyền thống văn hóa và giáo dục của Việt Nam. Đến nay, hầu hết các hoa văn và văn tự trên bia đá vẫn rõ nét. Phong cách viết và trang trí của mỗi bức bia, đầu rùa đều mang dấu ấn thời đại tạo nên chúng.
Trong khuôn viên của Quốc Tử Giám, có một chiếc chuông Bích Ung được đúc bởi Nguyễn Nghiêm vào năm 1768. Đây là một chiếc chuông lớn, có nhiều giá trị lịch sử. Mặt trong của chuông có hai chữ Thọ xương, mặt ngoài được khắc bài mình viết theo kiểu chữ lệ về công dụng của chiếc chuông.
Văn Miếu Quốc Tử Giám luôn coi trọng “nhân tài đối với quốc gia là quan trọng”, và “phải có đào tạo mới có nhân tài”. Vì vậy, đây là nơi sinh ra nhiều tài năng được tôn trọng qua thời kỳ nhà Lê, Mạc, Nguyễn… Điều này tạo nên một truyền thống của người Việt, trước khi tham gia thi cử, họ thường tìm đến đây để cầu may mắn và tinh thần, để đạt được thành tích tốt trong các cuộc thi.
Một sự kiện quan trọng về di tích này là việc UNESCO công nhận bia tiến sĩ của Văn Miếu - Quốc Tử Giám là di sản tư liệu thế giới. Điều này là nguồn tự hào của người Việt Nam và của lịch sử phát triển của loài người nói chung.
Mô tả về Văn Miếu Quốc Tử Giám - Mẫu 2
Trong số hơn 500 di tích lịch sử ở Hà Nội, Văn Miếu - Quốc Tử Giám là một trong những di tích quan trọng nhất, có liên quan đến việc thành lập Thăng Long dưới triều Lý. Với lịch sử gần nghìn năm, quy mô lớn và uy nghi nhất, đây là biểu tượng của Hà Nội và văn hóa, lịch sử của Việt Nam.
Hàng nghìn năm trước, vua Lý Thái Tổ đã chuyển đô từ Hoa Lư đến Đại La và đổi tên thành Thăng Long. Mặc dù thời gian trôi qua, Hà Nội vẫn giữ lại những dấu ấn cổ kính cùng với những danh lam thắng cảnh. Văn Miếu - Quốc Tử Giám là một trong số đó.
Văn Miếu – Quốc Tử Giám được xây dựng vào thế kỷ 11 dưới triều nhà Lý, với mục đích chính là giáo dục các hoàng tử và những người tài. Đồng thời, đây cũng là nơi tôn vinh các danh nhân trong lĩnh vực giáo dục, tổ chức các kỳ thi quốc gia, đặc biệt là kỳ thi tiến sĩ.
Văn Miếu – Quốc Tử Giám nằm ở phía Nam của Thăng Long cổ, thuộc quận Đống Đa, Hà Nội. Dù bốn mặt tiếp giáp với các con phố sầm uất, nhưng không làm mất đi vẻ yên bình, cổ kính của nơi này. Quần thể kiến trúc này có diện tích 54331m², bao gồm hồ Văn, khu Văn Miếu – Quốc Tử Giám và vườn Giám.
Hồ Văn đặt đối diện với cổng chính của Quốc Tử Giám, đã được trùng tu từ lâu. Đây là một hồ nước xanh mát, bên bờ cây xanh rợp mát, giữa hồ có gò Kim Châu. Khung cảnh yên bình, thơ mộng giúp các sĩ tử giải tỏa căng thẳng trước giờ thi.
Khu nội tự của Văn Miếu – Quốc Tử Giám được ngăn cách với vườn Giám và không gian bên ngoài bằng tường gạch vồ, không trát bên ngoài và được tổ chức từng khu, từng lớp theo trục Bắc Nam. Các lối đi trong Văn Miếu được trải sỏi hoặc lát đá sạch sẽ. Từ cổng chính Văn Miếu Môn, qua khu Nhập đạo đến cổng Đại Trung Môn, hai khu vực này đều được trồng cây để làm mát và có hồ nhỏ ở hai bên.
Tiếp theo là Khuê Văn Các, một lầu vuông tám mái, bốn bên tường có cửa sổ tròn hình mặt trời tỏa sáng. Tầng dưới có bốn trụ gạch vuông, trang trí hoa văn. Tầng trên là gỗ sơn đỏ có thếp vàng trừ mái và phần trang trí góc mái.
Tiếp theo là khu bia Tiến sĩ và hồ Thiên Quang Tỉnh, hay còn gọi là giếng soi ánh mặt trời. Bên cạnh hồ là những dãy bia đá trang nghiêm, cổ kính, tạo thành hai khu Đông và Tây. Mỗi khu chứa hai dãy bia đá, tổng cộng có 82 tấm bia ghi tên họ quê quán của những người đã đỗ Tiến sĩ triều Lê. Rùa được chọn làm chỗ đặt bia vì theo quan niệm của người Việt, rùa là thần Kim Quy, tượng trưng cho tinh thần, sức mạnh và đoàn kết của dân tộc.
Kế tiếp là khu bia Tiến sĩ và hồ Thiên Quang Tỉnh là Cửa Đại Thành. Bước qua cửa Đại Thành là sân rộng hàng ngàn mét vuông, lát gạch Bát Tràng, nơi trước kia dùng làm nơi tổ chức lớp học nghe giảng đạo. Ngày nay, đây là nơi tổ chức các sự kiện văn hóa lớn của Hà Nội và cả nước. Phía trước là tòa Đại Bái Đường rộng lớn, kéo dài trải dài chiều rộng của sân. Phía sau và song song là tòa Thượng Điện với chín gian, tường xây ba phía, mái cong vẩy cá. Thượng Điện xưa kia là nơi thờ tự và học hành, ngày nay chỉ còn là nơi thờ Khổng Tử và các danh nhân. Trong gian chính của Thượng Điện, có bài vị và tượng đồng của Khổng Tử. Hai gian bên phải và trái có ngai thờ bốn vị Tăng Tử, Mạnh Tử, Nhan Tử và Tử Tư. Ngoài bài vị, cả bốn vị đều có tượng gỗ sơn mài. Hai bên của sân là hai dãy Hữu Vu và Tả Vu, cũng là khu triển lãm, trưng bày và bán đồ lưu niệm cho khách tham quan.
Sau Thượng Điện là khu Khải Thánh, nơi thờ cha mẹ của Khổng Tử.
Khu Tiền đường và Hậu đường là công trình hoàn toàn mới, nằm trong dự án trùng tu khu Thái Học khởi công xây dựng ngày 13 – 7 – 1999. Tiền đường là nơi trưng bày truyền thống hiếu học, tôn sư trọng đạo và tổ chức các hội thảo khoa học, văn hóa nghệ thuật. Hậu đường là kiến trúc gỗ hai tầng. Tầng một tôn vinh Danh sư Tư nghiệp Quốc Tử Giám Chu Văn An và trưng bày về Văn Miếu – Quốc Tử Giám Thăng Long và nền giáo dục Nho học Việt Nam. Tầng hai thờ các danh nhân đã có công xây dựng Văn Miếu – Quốc Tử Giám và góp phần vào sự nghiệp giáo dục Nho học Việt Nam. Trong khuôn viên Hậu đường, còn có nhà chuông, lưu giữ chuông Bích Ung đúc từ năm 1768, và nhà trống treo trống lớn màu đỏ.
Bên ngoài Hậu đường, còn có nhà chuông, lưu giữ chuông Bích Ung được đúc từ năm 1768, và nhà trống có treo trống lớn màu đỏ.
So với trường đại học Bologna ở Ý - trường đại học cổ nhất ở châu Âu với lịch sử từ năm 1088 đến nay, vẫn giữ được vẻ đẹp cổ điển với kiến trúc thời Trung cổ. Các toà nhà màu cam nổi bật và các mái vòm trang trí tinh xảo trên các hành lang. Quần thể Văn Miếu - Quốc Tử Giám kết hợp hài hòa giữa kiến trúc Phật giáo, Nho giáo và văn hóa dân gian Việt Nam.
Mỗi khi xuân về, hình ảnh cổ kính của người Hà Nội lại hiện hữu thông qua những người đàn ông bày mực và tàu giấy đỏ trên phố đông người qua lại. Việc xin chữ đầu năm đã trở thành một nét văn hóa đặc trưng của đất Hà Thành.
Văn Miếu - Quốc Tử Giám không chỉ là biểu tượng của tri thức và văn hóa, mà còn là biểu tượng của khát vọng học hỏi của người Việt, thu hút du khách trong và ngoài nước. Đây cũng là một khu di tích văn hóa nổi tiếng của Hà Nội.
Thuyết minh về Văn Miếu Quốc Tử Giám - Mẫu 3
Văn Miếu - Quốc Tử Giám là một trong những quần thể di tích đa dạng và phong phú nhất của Thăng Long - Hà Nội thời nhà Lý, nằm ở phía nam của kinh thành.
Văn Miếu - Quốc Tử Giám là tổ hợp bao gồm hai di tích chính: Văn Miếu thờ Khổng Tử, nơi tôn vinh các nhà hiền triết của Nho giáo và Tư nghiệp, và Quốc Tử Giám - ngôi trường đại học cao cấp đầu tiên của Việt Nam, đã đào tạo hàng nghìn tài năng cho đất nước trong hơn 700 năm. Ngày nay, Văn Miếu - Quốc Tử Giám là điểm đến của du khách và cũng là nơi gặp gỡ của các học sinh xuất sắc, cũng như là nơi tổ chức hội thơ hàng năm vào ngày rằm tháng giêng. Đặc biệt, đây còn là nơi mà các thí sinh đến để 'cầu may' trước mỗi kỳ thi.
Về phần lịch sử:
Văn Miếu được xây dựng vào 'tháng 8 năm Canh Tuất (1070) tức năm Thần Vũ thứ hai đời Lý Thánh Tông, khi đó tượng Chu Công, Khổng Tử và Tứ phối vẽ tranh tượng Thất thập nhị hiền được đắp, và bốn mùa cúng tế được tổ chức. Hoàng thái tử đã đến đây để học tập.
Bia tiến sĩ khoa thi nho học năm Nhâm Tuất (1442). Năm 1076, Lý Nhân Tông thành lập trường Quốc Tử Giám, được xem là trường đại học đầu tiên của Việt Nam. Ban đầu, trường chỉ dành cho con của vua và các gia đình quý tộc (gọi là Quốc Tử). Năm 1156, Lý Anh Tông đã sửa lại Văn Miếu và chỉ thờ Khổng Tử.
Từ năm 1253, vua Trần Thái Tông mở rộng Quốc Tử Giám và nhận học sinh từ các gia đình thường dân có năng khiếu học vấn.
Trong thời Minh Tông của triều đại Trần, Chu Văn An được bổ nhiệm làm quan Quốc Tử Giám Tư nghiệp (hiệu trưởng) và là thầy dạy trực tiếp cho các hoàng tử. Ông qua đời vào năm 1370 và được vua Trần Nghệ Tông thờ tại Văn Miếu, gần bên cạnh tượng Khổng Tử.
Sang thời Hậu Lê, Nho giáo phát triển mạnh mẽ. Năm 1484, Lê Thánh Tông đã cho xây dựng bia tiến sĩ để vinh danh những người đỗ tiến sĩ từ kỳ thi năm 1442 trở đi.
Năm 1762, Lê Hiển Tông quyết định sửa đổi Quốc Tử Giám thành trung tâm đào tạo và giáo dục cao cấp của triều đình. Vào năm 1785, nơi này được đổi tên thành Nhà Thái Học.
Trong triều đại nhà Nguyễn, Quốc Tử Giám được thành lập tại Huế. Năm 1802, vua Gia Long đã xác định nó là Văn Miếu - Hà Nội và xây dựng thêm Khuê Văn Các. Trường Giám cũ, ở phía sau Văn Miếu, đã được chuyển thành Nhà Khải Thánh để tưởng nhớ cha mẹ của Khổng Tử. Đầu năm 1947, nhà này đã bị phá hủy bởi đạn lớn của quân Pháp, chỉ còn lại một phần nền đất với hai cột đá và bốn đá nghiên. Ngày nay, nó đã được phục hồi theo kiến trúc ban đầu cùng với các công trình khác trong quần thể.
Năm 1762, Lê Hiển Tông đã quyết định cải tổ Quốc Tử Giám thành trung tâm giáo dục và đào tạo cao cấp dành cho triều đình. Vào năm 1785, nơi này đã được đổi tên thành Nhà Thái Học.
Trong triều đại nhà Nguyễn, Quốc Tử Giám được thành lập tại Huế. Năm 1802, vua Gia Long quyết định đặt tên nó là Văn Miếu - Hà Nội và cho xây dựng thêm Khuê Văn Các. Phía sau Văn Miếu, ngôi trường cũ đã được chuyển thành Nhà Khải Thánh để tưởng nhớ cha mẹ của Khổng Tử. Đầu năm 1947, quân Pháp nã đạn làm sập toà nhà, chỉ còn lại phần nền với hai cột đá và bốn đá nghiên. Ngày nay, ngôi nhà này đã được tái thiết theo kiến trúc cổ điển, phù hợp với các công trình khác trong khu vực.
Về phần kiến trúc:
Kiến trúc của quần thể Văn Miếu - Quốc Tử Giám được tổ chức theo trục Bắc Nam, mô phỏng tổng thể của khu Văn Miếu thờ Khổng Tử tại quê hương ông ở Khúc Phụ, Sơn Đông, Trung Quốc. Mặc dù quy mô ở đây đơn giản hơn và kiến trúc đơn giản hơn, nhưng vẫn giữ được nét truyền thống của nghệ thuật dân tộc.
Ở phía trước của Văn Miếu là hồ lớn được gọi là hồ Văn Chương, trước đây được biết đến với tên Thái Hồ. Trong hồ có đài Kim Châu, trước đây có một lâu đài dành cho việc ngắm cảnh.
Bên ngoài cổng chính có bốn trụ, hai bên là hai bia đá gọi là 'Hạ Mã', xung quanh là tường rào cao bao quanh. Cổng Văn Miếu được xây dựng theo kiểu Tam Quan, trên cổng có ba chữ 'Văn Miếu Môn' được viết bằng chữ Hán cổ.
Trong Văn Miếu, được chia thành 5 khu vực rõ ràng, mỗi khu vực có tường ngăn và cổng đi liên kết với nhau:
Khu đầu tiên: bắt đầu từ cổng chính Văn Miếu Môn đi đến cổng Đại Trung Môn, hai bên có cửa nhỏ gọi là Thành Đức Môn và Đạt Tài Môn.
Khu thứ hai: từ Đại Trung Môn vào khuê Văn Các (do Đức Tiền Quân Tổng trấn Bắc Thành Nguyễn Văn Thành cho xây năm 1805). Khuê Văn Các là một công trình kiến trúc không lớn nhưng rất đẹp mắt. Kiến trúc gồm 4 trụ gạch vuông bên dưới, có những kết cấu gỗ đẹp. Tầng trên có 4 cửa hình tròn, hàng lan can và con sơn. Mái ngói chồng hai lớp tạo thành 8 mái, gác là một lầu vuông tám mái. Hình tượng Khuê Văn Các mang tất cả sự tinh túy của văn học. Hai bên phải trái của Khuê Văn Các là Bi Văn Môn và Súc Văn Môn dẫn vào hai khu nhà bia Tiến sĩ.
Khu thứ ba: bao gồm hồ nước Thiên Quang Tỉnh, hai bên có 2 khu nhà bia tiến sĩ. Mỗi tấm bia được làm bằng đá, khắc tên các vị thi đỗ Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa, Hoàng giáp, Tiến sĩ. Bia đặt trên lưng một con rùa. Hiện có 82 tấm bia tiến sĩ từ năm 1442 đến năm 1779, chia đều cho hai khu trái và phải. Trong đó, 12 tấm bia đầu tiên (năm 1442-1514) được dựng vào thời Lê sơ, 2 tấm (năm 1518, 1529) vào thời nhà Mạc, còn 68 tấm cuối cùng (năm 1554-1779) vào thời Lê trung hưng. Mỗi khu nhà bia có 1 Bi đình ở giữa và 4 nhà bia (mỗi nhà 10 tấm) xếp thành hai hàng, ở hai bên Bi đình. Bi đình khu trái Thiên Quang Tỉnh chứa bia tiến sĩ năm 1442, còn Bi đình khu phải chứa bia tiến sĩ năm 1448.
Khu thứ tư: là khu trung tâm và là kiến trúc chính của Văn Miếu, bao gồm hai công trình lớn song song và kế tiếp nhau. Tòa ngoài là Bái đường, tòa trong là Thượng cung.
Khu thứ năm: được biết đến là khu Thái Học, trước đây từng là địa điểm của đền Khải Thánh, nơi thờ phụng cha mẹ của Khổng Tử, nhưng đã bị hủy hoại. Khu nhà Thái Học mới được tái xây dựng vào năm 2000.
Trong Văn Miếu có bức tượng của Khổng Tử và bốn Tứ Phối (Nhan Tử, Tăng Tử, Tử Tư, Mạnh Tử). Ở đền thờ Khổng Tử có hai cặp hạc cưỡi trên lưng rùa, một biểu tượng phổ biến tại các điểm thánh của Việt Nam. Hình ảnh hạc đứng trên lưng rùa biểu hiện sự hòa hợp giữa trời và đất, giữa hai sức mạnh âm và dương. Rùa tượng trưng cho đất, còn hạc tượng trưng cho bầu trời. Legend kể rằng rùa và hạc là bạn đồng hành của nhau. Khi mưa lũ ngập tràn, hạc không thể sống dưới nước, vì vậy rùa đã giúp hạc vượt qua nước ngập. Ngược lại, khi trời khô hanh, hạc đã đưa rùa đến nơi có nước. Điều này thể hiện lòng trung thành và sự hỗ trợ giữa những người bạn.
Ngày nay, Khuê Văn Các ở Văn Miếu - Quốc Tử Giám đã được công nhận là biểu tượng của Hà Nội.
Thuyết minh về Văn Miếu Quốc Tử Giám - Mẫu 4
Văn Miếu Quốc Tử Giám là một trong những điểm du lịch hàng đầu của Hà Nội, đồng thời cũng là biểu tượng của nền văn hóa nho học, nơi đã đào tạo ra nhiều nhân tài cho đất nước từ khi thành lập. Đây được coi là trường đại học chính thức đầu tiên của Việt Nam. Quốc Tử Giám là minh chứng cho sự nỗ lực trong việc nâng cao học vấn cho dân chúng, phát triển giáo dục đến đỉnh cao dưới triều đại của vua Lý Nhân Tông. Lịch sử đã chứng minh rằng triều Lý là triều đại có nền giáo dục phát triển mạnh mẽ nhất. Với kiến trúc độc đáo và lịch sử lâu dài, Văn Miếu - Quốc Tử Giám đã ghi lại những dấu ấn sâu sắc trong lòng người và được ngưỡng mộ.
Văn Miếu được xây dựng vào năm 1070 trong thời kỳ của vua Lê Thánh Tông, còn Quốc Tử Giám được bắt đầu xây dựng vào năm 1076, cũng vào thời điểm đó, ngay bên cạnh Văn Miếu. Hai công trình này tọa lạc ở phía Nam của kinh thành Thăng Long, tại quận Đống Đa, thành phố Hà Nội. Diện tích tổng cộng của quần thể di tích là 5433 mét vuông, được bao quanh bởi các tuyến đường chính của quận, với cổng chính hướng Nam kế bên phố Quốc Tử Giám, phía Bắc là phố Nguyễn Thái Học, phía Tây là phố Tôn Đức Thắng, và phía Đông giáp với phố Văn Miếu.
Khu di tích Văn Miếu - Quốc Tử Giám bao gồm các tường rào xây bằng gạch vồ, phân chia thành 5 khu không gian khác nhau bên trong, mỗi khu được tách bằng một tường gạch dày có ba cửa thông với nhau. Quan sát tổng thể, quần thể di tích bao gồm Hồ Văn, khu Văn Miếu thờ Khổng Tử và Quốc Tử Giám. Bắt đầu từ cổng chính ở phía Nam, giáp phố Quốc Tử Giám, ta thấy Hồ Văn đối diện với khu Văn Miếu, và từ Hồ Văn, bước qua đường là tường gạch bao ngoài của di tích, bao gồm Tứ trụ được xây bằng gạch, hai trụ ở giữa cao vượt lên hình con nghê chầu vào, hai trụ ở ngoài đắp hình chim phượng, hai bên là hai Bia Hạ Mã. Cửa chính tiếp theo là cổng Văn Miếu với cổng giữa xây vuông và cao hai tầng, hai cổng bên nhỏ hơn đối xứng nhau, khu vực này gọi là Nhập đạo bao gồm khu Văn Miếu và Vườn Giám. Tiếp tục vào bên trong là cổng Đại Trung, qua cổng này là Khuê Văn Các, nằm bên ngoài cùng, là một lầu vuông tám mái, bốn cửa tròn. Tiếp theo là giếng Thiên Quang hoặc Văn Trì ở trung tâm, với các Bia Tiến Sĩ được đặt ở hai bên. Bên trong tiếp theo là cổng Đại Thành, bao gồm khu Đại Thành với điện thờ Khổng Tử, sau đó là cổng Thái Học, bao gồm khu Thái Học, Lầu Chuông và Lầu trống.
Văn Miếu ban đầu được xây dựng như một nơi thờ cúng các vị tiên sư của nền văn hóa nho giáo, đồng thời là trường học hoàng gia đầu tiên của Đại Việt, với học sinh đầu tiên là thái tử Lý Càn Đức sau là vua Lý Nhân Tông. Sau khi Quốc Tử Giám hoàn thiện, khu di tích này trở thành trường đại học đầu tiên của Việt Nam, ban đầu chỉ dành cho con cái nhà quý tộc, sau mở cửa cho cả con em nhân dân thường nhưng có tài năng. Ngày nay, Văn Miếu - Quốc Tử Giám là một trong 23 Di tích Quốc gia đặc biệt, là minh chứng cho sự phát triển của giáo dục dưới thời phong kiến, và là điểm đến hấp dẫn của du khách.
Quần thể khu di tích Văn Miếu Quốc Tử Giám là biểu tượng của tinh thần hiếu học, tôn trọng giáo dục, và vinh danh nhân tài, với những giá trị văn hóa sâu sắc và quý giá. Do đó, việc bảo tồn và bảo vệ khu di tích là rất quan trọng, để giữ cho những giá trị truyền thống này được kế thừa và phát triển qua các thế hệ.
Văn Miếu Quốc Tử Giám là một trong những di tích lịch sử nổi tiếng của Việt Nam, là minh chứng cho tinh thần hiếu học của dân tộc. Nó là một trong những địa điểm du lịch quan trọng, cùng với các danh lam thắng cảnh khác như Phong Nha- Kẻ Bàng, chùa Thiên Mụ, Vịnh Hạ Long, và Di Tích Lịch Sử Đền Hùng - Đất Tổ của con Rồng cháu Tiên.
Thuyết minh về Văn Miếu Quốc Tử Giám - Mẫu 5
Văn Miếu Quốc Tử Giám nằm ở trung tâm Hà Nội, là trường đại học lâu đời nhất của Việt Nam. Từ những ngày đầu tiên, ngôi trường này đã thu hút nhiều tài năng, góp phần vào sự phát triển của đất nước. Ngày nay, Văn Miếu vẫn là điểm đến phổ biến cho du khách khi đến thăm Hà Nội, nhờ vào kiến trúc độc đáo và ấn tượng.
Văn Miếu Quốc Tử Giám đã trải qua nhiều biến cố của lịch sử, nhưng vẫn giữ được nét đẹp truyền thống của dân tộc Hà Nội. Đó là một giá trị tinh thần cao quý đã được bảo tồn qua hàng trăm năm. Văn Miếu nằm ở phía Nam của kinh thành Thăng Long thời Lí, hoạt động từ năm 1076 đến 1820, đào tạo ra nhiều nhân tài cho đất nước.
Văn Miếu bao gồm hai phần chính là Văn Miếu thờ Khổng Tử, nơi tôn vinh các triết gia và Quốc Tử Giám Chu Văn An, người thầy đầu tiên của trường. Dù qua bao biến cố, Văn Miếu vẫn giữ được vẻ đẹp cổ kính.
Ban đầu, Văn Miếu là nơi học của các hoàng tử, sau đó mở rộng ra cho các tài năng trong cả nước. Với diện tích 54.331 m2, bao gồm Hồ Văn, vườn Giám và nội tự được bao quanh bằng tường gạch vồ, Văn Miếu với những kiến trúc cổ kính là biểu tượng của sự thăng trầm của dân tộc qua các thời kỳ lịch sử.
Khi tiến vào khu Văn Miếu, du khách sẽ đến được cổng chính, trên cổng chính có chữ Văn Miếu Môn. Bên ngoài cổng có hai con rồng đá thời Lê, bên trong là rồng đá thời Nguyễn. Khu thứ hai là Khuê Văn Các được xây dựng vào năm 1805 với 2 tầng, 8 mái rộng lớn. Đây là nơi tổ chức bình các bài thơ và văn hay của sĩ tử thời xưa. Khu thứ ba là từ gác Khuê Văn đến Đại Thành Môn, ở giữa có một hồ vuông gọi là Thiên Quang Tĩnh. Ở hai bên hồ là nơi lưu giữ 82 bia tiến sĩ với tên, quê quán, chức danh của những người nổi tiếng như Ngô Thì Nhậm, Lê Quý Đôn...
Cuối sân là nhà Đại bái và hậu cung; có những hiện vật quý hiếm được lưu truyền từ bao đời như chuông Bích Ung do Nguyễn Nghiêm đúc vào năm 1768. Đây là chiếc chuông lớn, có giá trị lịch sử và văn hóa lâu đời. Tấm khánh mặt trong có hai chữ Thọ Xương, mặt ngoài khắc bài mình biết theo kiểu chữ lệ nói về công dụng loại nhạc cụ này. Khu thứ 5 là Trường Quốc Tử Giám. Ở đây là nơi dạy học, tuyển chọn người tài, đỗ đạt cao giúp cho vua nâng cao trí thức. Có rất nhiều người từ ngôi trường này đã gây nên tiếng vang lớn cho đến ngày nay như Chu Văn An, Bùi Quốc Khải...
Văn Miếu Quốc Tử Giám được xây dựng chủ yếu từ gỗ lim, gạch đất nung, ngói mũi hàng mang nét nghệ thuật của triều Lê và Nguyễn. Những nét kiến trúc độc đáo ấy được xây dựng khéo léo bởi những bàn tay tài hoa.
Cho đến ngày nay, Văn Miếu Quốc Tử Giám vẫn là điểm đến của nhiều du khách, không chỉ nhớ về cội nguồn mà còn để khấn bái và tìm hiểu lịch sử của cha ông. Nơi đây cũng là tâm điểm của Hà Nội, của thủ đô nghìn năm văn hiến.
Thuyết minh về Văn Miếu Quốc Tử Giám - Mẫu 6
Liên kết với lịch sử văn hiến của Hà Nội, không thể không nhắc đến Văn Miếu – Quốc Tử Giám – trường đại học đầu tiên của nước ta, biểu tượng cho truyền thống hiếu học của dân tộc Việt Nam.
Văn Miếu – Quốc Tử Giám được xây dựng từ thế kỷ 11 dưới thời Lý, tọa lạc ở phía Nam kinh thành Thăng Long. Suốt hơn 800 năm, nơi này đã đào tạo ra những nhân tài vượt thời gian, từ thời Lê sơ, Mạc cho đến Lê Trung Hưng, tôn vinh các bậc hiền tài theo quan điểm Hiền tài là nguyên khí quốc gia.
Vượt qua thăng trầm của lịch sử, Văn Miếu – Quốc Tử Giám nay đã thay đổi về mặt kiến trúc, ảnh hưởng Đông Phương, Nho Phật. Nằm giữa phố cổ với bốn dãy phố cổng chính là phố Quốc Tử Giám, phố Nguyễn Thái Học, phố Tôn Đức Thắng, phố Văn Miếu, nơi bảo tồn hai di tích chính là Văn Miếu thờ Khổng Tử và Tư nghiệp Quốc Tử Giám Chu Văn An.
Ban đầu chỉ dành cho hoàng gia, sau mở rộng cho người dân. Toàn bộ kiến trúc Văn Miếu hiện nay đều là kiến trúc thời Nguyễn, bốn bức tường xây từ thời Hậu Lê. Quần thể kiến trúc được chia làm ba khu vực chính: Văn hồ, vườn Giám và khu nội tự. Hồ Văn nằm đối diện cổng chính của Quốc Tử Giám, một hồ nước trong, râm mát với cây cỏ, giúp giảm căng thẳng sau những ngày làm việc, học tập.
Khu nội tự của Văn Miếu – Quốc Tử Giám được ngăn cách với Vườn Giám bằng bức tường gạch, chia làm năm lớp với cửa chính và hai cửa phụ, các kiến trúc chủ thể như cổng Văn Miếu, Đại Trung, Khuê Văn các, Đại Thành, khu điện thờ, cổng Thái Học và khu Thái Học.
Trước khi khám phá kiến trúc bên trong Văn Miếu – Quốc Tử Giám, ta phải đi qua Văn Miếu môn, cổng tam quan ngoại cùng, có ba cửa, cửa giữa cao to và xây 2 tầng. Từ Văn Miếu môn vào là khu Nhập Đạo với ba cửa chính theo thứ tự từ trái sang phải là Đại Trung, Thành Đức và Đại Tài.
Tiếp theo là Khuê Văn các với kiến trúc một lầu vuông tám mái, bao gồm bốn mái thượng và bốn mái hạ, cao gần chín thước được xây dựng dưới thời Nguyễn, là nơi họp bình các bài văn hay của các sĩ tử đỗ kỳ thi hội. Khu thiên quang và hai vườn bia Tiến sĩ, có 82 tấm bia Tiến sĩ hình con rùa bằng đá xanh theo quan niệm của người Việt, rùa chính là thần Kim Quy biểu tượng cho tinh thần, sức mạnh, sự đoàn kết của dân tộc. Kế tiếp khu tiến sĩ và giếng Thiên Quang là Đại Thành môn với kiến trúc ba gian và hai hàng cột hiên trước sau và một hàng cột giữa.
Qua Đại Thành môn là khu điện thờ, khu vực chính của di tích Quốc Tử Giám, nơi thờ Khổng Tử, Chu Công, Tứ Phối, Thất thập nhị hiền v.v… và cũng là nơi giảng dạy của trường giám thời xưa. Khu Khải Thánh hay còn gọi là khu Thái học là khu sau cùng của di tích, không chỉ là nơi thờ cha mẹ của Khổng Tử mà còn là nơi rèn đúc nhân tài cho nhiều triều đại.
Nhà Tiền Đường, Hậu Đường là công trình mới trong khu Thái học, Tiền Đường là nơi trưng bày truyền thống hiếu học, tôn sư trọng đạo ngày nay, cũng là nơi tổ chức các cuộc hội thảo khoa học, văn hoá nghệ thuật dân tộc. Hậu Đường tôn vinh vị danh sư Chu Văn An, tôn vinh nền giáo dục Nho học Việt Nam và những người đã có công xây dựng Văn Miếu – Quốc Tử Giám.
Văn Miếu – Quốc Tử Giám không chỉ là biểu tượng khuyến khích hiền tài, mà còn là dấu ấn của sự hình thành và phát triển của tầng lớp trí thức Nho học Việt Nam, những người đã tiếp thu và phát huy tinh hoa của các nền văn minh phương Đông để sáng tạo ra cả kho tàng văn hiến Hán Nôm giàu tinh thần yêu nước và bản sắc dân tộc, gắn liền với nhiều nét mộc mạc của thời đại phong kiến, chứa đựng tinh hoa văn hóa qua các triều đại, đóng vai trò sử đá của nền giáo dục khoa cử Việt Nam.
Dù có những biến đổi, Văn Miếu – Quốc Tử Giám vẫn giữ nguyên được những giá trị truyền thống. Mỗi khi tết đến xuân về, hình ảnh cổ xưa hiện về qua những ông đồ già tìm chữ đầu năm - một nét văn hóa đặc trưng của người Hà Nội. Với những giá trị lịch sử và văn hóa như vậy, Văn Miếu – Quốc Tử Giám đã trở thành niềm tự hào của người dân thủ đô và của người Việt Nam.