Tiên Lữ
|
|||
---|---|---|---|
Huyện | |||
Huyện Tiên Lữ | |||
Hành chính | |||
Quốc gia | Việt Nam | ||
Vùng | Đồng bằng sông Hồng | ||
Tỉnh | Hưng Yên | ||
Huyện lỵ | Thị trấn Vương | ||
Phân chia hành chính | 1 thị trấn, 14 xã | ||
Thành lập | 24/2/1997: tái lập | ||
Tổ chức lãnh đạo | |||
Chủ tịch UBND | Nguyễn Thị Bích Hường | ||
Bí thư Huyện ủy | Doãn Anh Quân | ||
Địa lý | |||
Tọa độ: | |||
| |||
Diện tích | 78,57 km² | ||
Dân số (2020) | |||
Tổng cộng | 93.554 người | ||
Thành thị | 5.383 người (6%) | ||
Nông thôn | 88.171 người (94%) | ||
Mật độ | 1.191 người/km² | ||
Dân tộc | Kinh... | ||
Khác | |||
Mã hành chính | 332 | ||
Biển số xe | 89-H1-H2 | ||
Website | tienlu | ||
Tiên Lữ là một huyện thuộc tỉnh Hưng Yên, nằm ở khu vực phía nam của tỉnh này.
Vị trí địa lý
Huyện Tiên Lữ tọa lạc ở phía nam tỉnh Hưng Yên, cách thành phố Hưng Yên khoảng 10 km, cách trung tâm Hà Nội khoảng 60 km, và cách thành phố Hải Phòng khoảng 84 km. Đây là vị trí địa lý của huyện.
- Phía đông tiếp giáp huyện Phù Cừ
- Phía tây giáp thành phố Hưng Yên và huyện Kim Động
- Phía nam tiếp giáp huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình
- Phía bắc giáp huyện Ân Thi.
Huyện Tiên Lữ có diện tích 78,57 km², với dân số 954 người vào năm 2020, đạt mật độ dân số khoảng 1.191 người/km².
Đặc điểm địa hình
Tiên Lữ nằm ở trung tâm đồng bằng Bắc Bộ, thuộc vùng trũng của tỉnh, với địa hình thấp dần từ Bắc xuống Nam và từ Tây sang Đông. Địa hình không đồng đều là một trong những thách thức lớn đối với công tác thủy lợi và phát triển nông nghiệp.
Thời tiết
Huyện Tiên Lữ thuộc vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, với nhiệt độ trung bình từ 24 - 27°C trong khoảng thời gian từ tháng 5 đến tháng 10, thời điểm có nhiều mưa bão ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp. Từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau, nhiệt độ giảm xuống còn từ 18 - 24°C. Độ ẩm trung bình hàng năm là 86%, và lượng mưa trung bình từ 1680 - 1730 mm, có năm vượt quá 2000 mm. Lượng mưa tại huyện thường cao hơn 100 - 200 mm so với các huyện phía bắc tỉnh và tập trung chủ yếu vào các tháng 8, 9.
Thông tin về tài nguyên đất
Huyện có tổng diện tích đất tự nhiên là 11.510 ha, trong đó 6.293,68 ha là đất nông nghiệp, với bình quân diện tích đất nông nghiệp đầu người đạt 549 m². Đất đai chủ yếu là đất phù sa bồi và không bồi, phân bổ chủ yếu ở vùng ngoài đê ven sông Luộc. Đất phù sa bồi đắp hàng năm giúp đất đai trở nên màu mỡ, thích hợp cho các cây công nghiệp ngắn ngày, cây lương thực và hoa màu. Điều kiện khí hậu và đất đai của Tiên Lữ rất thuận lợi cho phát triển nông nghiệp đa dạng.
Thông tin về thủy văn
Huyện nằm gần hai con sông lớn là sông Hồng và sông Luộc, tại điểm hợp lưu của sông Hồng, sông Luộc và sông Thái Bình tạo thành ngã ba Tuần Vường. Bên cạnh đó, các sông cổ như sông Càn Đà nối tiếp với sông Cửu An đổ ra Cửa Gàn, cùng hệ thống sông đào tạo thành mạng lưới thủy lợi cung cấp nước cho sản xuất nông nghiệp và công nghiệp.
Bên cạnh đó, trên địa bàn huyện còn có các con sông nhỏ nhánh của sông Luộc, trong đó sông Nghĩa Lý đóng vai trò là ranh giới tự nhiên giữa hai xã Lệ Xá và Trung Dũng.
Cơ cấu hành chính
Huyện Tiên Lữ gồm 15 đơn vị hành chính cấp xã, bao gồm thị trấn Vương (huyện lỵ) và 14 xã: An Viên, Cương Chính, Dị Chế, Đức Thắng, Hải Triều, Hưng Đạo, Lệ Xá, Minh Phượng, Ngô Quyền, Nhật Tân, Thiện Phiến, Thủ Sỹ, Thụy Lôi, và Trung Dũng.
Di tích lịch sử
Vào thế kỷ X, sau khi đánh bại quân Nam Hán, Ngô Quyền đã dừng chân tại khu vực này và sau đó, hai xã được đặt theo tên ông là Ngô Quyền và thị trấn Vương.
Thời kỳ Tiền Lê, khu vực Tiên Lữ thuộc lộ Khoái Châu. Khi triều đại Lý phân chia đất nước thành 24 lộ, Tiên Lữ thuộc lộ Khoái Châu. Vào năm Nhâm Tý 1252, dưới triều đại Trần Thái Tông, huyện được gọi là Tiên Hoa thuộc phủ Khoái Châu. Đến thời Hậu Lê, huyện được đổi tên thành Tiên Lữ thuộc phủ Khoái Châu. Năm 1469, dưới triều Quang Thuận, huyện Tiên Lữ thuộc tỉnh Sơn Nam.
Vào năm Cảnh Hưng thứ hai (1741), huyện Tiên Lữ thuộc phủ Khoái Châu trong vùng Sơn Nam Thượng.
Năm 1831, khi tỉnh Hưng Yên được thành lập, huyện Tiên Lữ thuộc phủ Tiên Hưng.
Năm 1890, khi tỉnh Thái Bình được thành lập, huyện Thần Khê chuyển về tỉnh Thái Bình, chỉ còn lại 4 huyện trong phủ Tiên Hưng: Tiên Lữ, Phù Cừ, Duyên Hà, và Hưng Nhân.
Năm Thành Thái thứ 6 (1894), huyện Tiên Lữ và Phù Cừ được chuyển về phủ Khoái Châu.
Năm 1947, huyện Văn Giang được chuyển từ tỉnh Bắc Ninh về tỉnh Hưng Yên, và vào thời điểm đó, huyện Tiên Lữ trở thành một trong 9 huyện của tỉnh Hưng Yên.
Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, nhân dân và quân đội huyện Tiên Lữ đã dốc toàn lực cho cuộc chiến. Trong suốt hai cuộc kháng chiến, huyện đã có 25.000 thanh niên lên đường nhập ngũ, với 3.236 liệt sĩ, 1.751 thương binh và bệnh binh, 111 bà mẹ Việt Nam Anh hùng, 6 Anh hùng lực lượng vũ trang, và 1 Anh hùng lao động.
Vào ngày 27 tháng 1 năm 1968, tỉnh Hải Dương và tỉnh Hưng Yên được sáp nhập thành tỉnh Hải Hưng, và huyện Tiên Lữ thuộc về tỉnh Hải Hưng.
Từ năm 1976 đến nay
Ngày 11 tháng 3 năm 1977, theo Quyết định 58-CP của Hội đồng Chính phủ, hai huyện Phù Cừ và Tiên Lữ được hợp nhất thành huyện Phù Tiên.
Vào ngày 7 tháng 10 năm 1995, Chính phủ đã ban hành Nghị định 57-CP, thành lập thị trấn Vương làm trung tâm hành chính của huyện Phù Tiên, được hình thành từ một phần diện tích và dân số của xã Ngô Quyền và xã Dị Chế.
Ngày 6 tháng 11 năm 1996, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết chia tỉnh Hải Hưng thành hai tỉnh Hải Dương và Hưng Yên, với huyện Phù Tiên thuộc tỉnh Hưng Yên.
Ngày 24 tháng 2 năm 1997, Chính phủ ban hành Nghị định 17-CP, quyết định tách huyện Phù Tiên thành hai huyện mới là Phù Cừ và Tiên Lữ.
Huyện Tiên Lữ có tổng diện tích tự nhiên là 11.304 ha và dân số đạt 132.555 người, bao gồm 22 đơn vị hành chính cấp xã và thị trấn Vương, cụ thể là các xã: Lệ Xá, Minh Phương, Cương Chính, Trung Dũng, Thuỵ Lôi, Đức Thắng, Hải Triều, An Viên, Dị Chế, Ngô Quyền, Hưng Đạo, Nhật Tân, Trung Nghĩa, Liên Phương, Thủ Sĩ, Thiện Phiến, Phương Chiểu, Tân Hưng, Hồng Nam, Hoàng Hanh, Quảng Châu và thị trấn Vương.
Năm 1999, huyện Tiên Lữ vinh dự được Đảng và Nhà nước trao tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Nhiều xã trong huyện cũng được vinh danh với danh hiệu này, bao gồm Hưng Đạo, Hải Triều, Thiện Phiến, Lệ Xá, Nhật Tân và Dị Chế.
Vào ngày 23 tháng 9 năm 2003, Chính phủ đã ban hành Nghị định 108/2003/NĐ-CP, quy định việc sáp nhập các xã Trung Nghĩa, Liên Phương, Hồng Nam và Quảng Châu vào quản lý của thị xã Hưng Yên.
Sau khi sáp nhập, huyện Tiên Lữ còn lại 9.242 ha diện tích tự nhiên và 104.072 người dân. Huyện hiện có 18 đơn vị hành chính, bao gồm các xã: Hưng Đạo, Ngô Quyền, Nhật Tân, Dị Chế, Lệ Xá, An Viên, Đức Thắng, Trung Dũng, Hải Triều, Thủ Sĩ, Thiện Phiến, Thụy Lôi, Cương Chính, Minh Phương, Phương Chiểu, Tân Hưng, Hoàng Hanh, và thị trấn Vương.
Ngày 6 tháng 8 năm 2013, Chính phủ đã ban hành Nghị định 95/NQ-CP, quy định việc sáp nhập các xã Tân Hưng, Phương Chiểu, và Hoàng Hanh vào thành phố Hưng Yên.
Sau đợt sáp nhập, huyện Tiên Lữ còn lại 7.841,50 ha diện tích và 83.039 người dân. Huyện hiện có 15 đơn vị hành chính cấp xã, bao gồm thị trấn Vương và 14 xã: Hưng Đạo, Ngô Quyền, Nhật Tân, An Viên, Dị Chế, Hải Triều, Đức Thắng, Thụy Lôi, Lệ Xá, Trung Dũng, Cương Chính, Minh Phượng, Thiện Phiến, và Thủ Sĩ.
Kinh tế - xã hội
Kinh tế của Tiên Lữ chủ yếu dựa vào nông nghiệp. Hiện tại, bên cạnh việc trồng lúa nước, một số hộ gia đình còn trồng nhãn lồng và chế biến thành long nhãn, tạo thành một ngành kinh tế phụ. Các xã trong huyện còn duy trì nhiều nghề phụ truyền thống, như xã Nội Viên với nghề làm bánh đa và xã Thủ Sỹ với nghề đan Đó và Dọ có lịch sử lâu đời.
Làng nghề
Tiên Lữ, cùng với Ân Thi và Phù Cừ, là huyện chủ yếu dựa vào nông nghiệp, có thu nhập thấp và ít nghề phụ. Các làng nghề và nghề phụ tại huyện chủ yếu tập trung vào sản phẩm đặc sản ở một số địa phương.
- Làng nghề bánh đa tại Nội Mai (An Viên)
- Sản xuất mành ở Đa Quang (Dị Chế)
- Chế biến nhãn thành long nhãn tại Ba Hàng (Thủ Sỹ)
- Đan đó, đụt, lờ, rọ tại Nội Lăng (Thủ Sỹ)
- Làng nghề đan đó nơm đụt ở Tất Viên (Thủ Sỹ)
- Làng nghề vận tải thủy tại Nội Lễ (An Viên)
- Trồng củ ấu tại một số làng ở phía Đông Nam
- Ếch om tại Phượng Tường (Nhật Tân)
- Giò chả, giò bì tại phố Xuôi (Thụy Lôi)
- Nghề trồng hoa tại thôn Thụy Lôi (Thụy Lôi)
Tính đến tháng 1 năm 2004, huyện Tiên Lữ có tổng dân số là 104.072 người, trong đó có 54.773 nữ. Với đặc điểm là huyện nông thôn thuần túy, Tiên Lữ có tỷ lệ dân số nông thôn cao (93,8%) và tỷ lệ dân số thành thị thấp (6,2%). Trong số người trong độ tuổi lao động, 46% tổng dân số, có 97% trong số đó đã có việc làm.
Hiện nay, 100% các xã và thôn trong huyện đã được cấp điện, và tỷ lệ hộ gia đình sử dụng điện đạt 99%.
Giao thông
Huyện Tiên Lữ có hệ thống giao thông đa dạng với Quốc lộ 38B chạy từ tây sang đông, kết nối giữa tỉnh Hưng Yên với huyện Phù Cừ và tỉnh Hải Dương. Quốc lộ 39A dài 10 km nối tiếp đến tỉnh Thái Bình. Các tuyến đường bao gồm đường cao tốc Hà Nội - Hải Phòng và Cầu Giẽ - Ninh Bình, cũng như tỉnh lộ 200 từ cảng Triều Dương qua trung tâm huyện đến Ân Thi. Đường TL. 376 nối thị trấn Vương với phố Xuôi, và đường TL. 378 dọc theo đê tả sông Luộc. Hệ thống giao thông đường thủy bao gồm sông Hồng dài 6 km và sông Luộc dài 12 km, cùng với các sông khác tạo thành mạng lưới giao thông thủy quan trọng kết nối Hà Nội, Hải Phòng, và Quảng Ninh.
Danh nhân
- Đào Công Soạn: Tể tướng dưới triều đại nhà Lê
- Hoàng Hoa Thám: Lãnh tụ kháng chiến chống thực dân Pháp
Chú giải
Đơn vị hành chính cấp huyện trực thuộc tỉnh Hưng Yên | |
---|---|
Thành phố (1) | Hưng Yên (tỉnh lỵ) |
Thị xã (1) | Mỹ Hào |
Huyện (8) | Ân Thi · Khoái Châu · Kim Động · Phù Cừ · Tiên Lữ · Văn Giang · Văn Lâm · Yên Mỹ |
Đơn vị hành chính thuộc tỉnh Hưng Yên |