Tiền tệ hiện hữu hay còn gọi là tiền mặt (từ chữ Hán là 現金) là tiền dưới dạng vật chất, bao gồm tiền giấy và tiền xu. Trong kế toán và tài chính, tiền mặt được coi là tài sản ngắn hạn, bao gồm tiền tệ hoặc các tài sản tương đương có thể được rút ra ngay lập tức hoặc gần như ngay lập tức (như tài khoản thị trường tiền tệ). Tiền mặt được sử dụng như một khoản dự trữ cho các khoản thanh toán trong trường hợp thiếu hụt dòng tiền hoặc như một cách để tránh rủi ro trên thị trường tài chính.
Lịch sử
Sau sự sụp đổ của Đế chế Tây La Mã ở Tây Âu, tiền xu, trang sức bạc và đồ vật bạc bị phân mảnh (hacksilver) là những hình thức tiền tệ chủ yếu trong nhiều thế kỷ. Đến khi các thương nhân Venice bắt đầu dùng thanh bạc cho các giao dịch lớn vào đầu thời kỳ Trung cổ, tiền giấy cũng được giới thiệu, thay thế cho việc hướng dẫn thanh toán bằng thỏi bạc đã được sử dụng. Những thỏi bạc được đánh dấu cũng xuất hiện ở các khu vực thương nhân Venice thiết lập văn phòng. Đế quốc Byzantine và một số quốc gia ở Balkan và Rus Kiev cũng sử dụng thỏi bạc cho các giao dịch lớn. Khi nền kinh tế toàn cầu phát triển và nguồn cung bạc gia tăng, đặc biệt là sau thời kỳ thuộc địa Nam Mỹ, tiền xu trở nên lớn hơn và trở thành đồng tiền tiêu chuẩn cho giao dịch quốc tế từ thế kỷ 15, với đồng vàng Tây Ban Nha và Tây Ban Nha có mệnh giá 8 real. Đồng vàng tương đương là ducat Venetian.
Tiền vàng và bạc cạnh tranh trên thị trường. Khi xâm chiếm thị trường nước ngoài, các nhà cai trị có thể thu thêm từ chênh lệch mệnh giá (sự khác biệt giữa giá trị của đồng tiền kim loại và giá trị của kim loại tạo ra đồng xu). Các đồng tiền thành công của tầng lớp quý tộc cao thường được sao chép bởi tầng lớp quý tộc thấp hơn để kiếm tiền chênh lệch. Các đồng tiền bắt chước thường có trọng lượng nhẹ hơn, làm giảm uy tín của đồng tiền gốc. Khi các quốc gia phong kiến hợp nhất thành các vương quốc, tiền bạc giả bị loại bỏ, nhưng đồng tiền vàng, đặc biệt là ducat vàng và florin vàng vẫn được phát hành như tiền thương mại: tiền không có giá trị cố định, tăng theo trọng lượng. Các cường quốc thuộc địa cũng cố gắng chiếm lĩnh thị phần từ Tây Ban Nha bằng cách phát hành đồng tiền thương mại tương đương với tiền bạc Tây Ban Nha, nhưng không thành công.
Vào đầu thế kỷ 17, tiền của Công ty Đông Ấn Anh được đúc tại Anh và chuyển đến phương Đông. Ở Anh, thuật ngữ tiền mặt đã được thông qua từ tiếng Phạn रररष karsa, tương đương với trọng lượng vàng hoặc bạc gần bằng karsha của Ba Tư cổ, đơn vị trọng lượng (83,30 gram). Tiền đúc của Công ty Đông Ấn có cả chữ Urdu và tiếng Anh trên đó để thuận tiện trong giao dịch. Năm 1671, các giám đốc Công ty Đông Ấn đã chỉ định thành lập một cơ sở đúc tiền tại Bombay, gọi là Bombaim. Năm 1677, cơ sở này bị Hoàng gia trừng phạt. Tiền đúc tại đây bị đổi thành rupee bạc, với dòng chữ 'The rupee of Bombaim' do chính quyền Charles II in lên. Vào thời điểm này, tiền kim loại cũng được sản xuất tại khu đúc tiền Madras cho Công ty Đông Ấn. Tiền tệ tại khu vực Bombay và Bengal là rupee, trong khi ở Madras, các tài khoản của công ty được ghi bằng các đơn vị pagodas, fractions, fanams, faluce và tiền mặt. Hệ thống này duy trì đến năm 1818 khi đồng rupee trở thành đơn vị tiền tệ chính cho các hoạt động của công ty, với tỷ lệ 1 pagoda = 3-91 rupee và 1 rupee = 12 fanams.