Phan Bội Châu (1867-1940) là nhà yêu nước và cách mạng của dân tộc Việt Nam - được coi là một anh hùng, một vị thiên sứ được hai mươi triệu người dân tôn kính như một vị thánh (theo Nguyễn Ái Quốc, trong tác phẩm Những trò lố hay là Va-ren và Phan Bội Châu).
Ông là biểu tượng tiêu biểu đầu tiên của các nhà cách mạng biết sử dụng văn chương như một vũ khí chiến đấu hiệu quả nhất. Cuộc đời của Phan Bội Châu là minh chứng cho tư tưởng “chí nam nhi” của các bậc quân tử phương Đông. Ông đã đưa ra một dòng chảy văn học trữ tình - chính trị. Thơ của ông thể hiện một bầu nhiệt huyết luôn sôi sục của một người có mục tiêu duy nhất là giành lại độc lập tự do cho dân tộc. Từ những năm thanh xuân đến những ngày làm “ông già Bến Ngự”, Phan Bội Châu luôn mang trong mình khát vọng giải phóng dân tộc và xây dựng một đất nước dân chủ tiến bộ.
Xuất dương lưu biệt thể hiện sự đẹp lãng mạn và hào hùng của lớp nhà nho tiên tiến đầu thế kỷ XX: Ý tưởng mạnh mẽ, táo bạo, nhiệt huyết và khát vọng giải phóng dân tộc luôn bùng nổ. Bằng một lối thơ sôi nổi, đầy hào khí, tác giả đã thể hiện tinh thần chung của thời đại, đã mang đến làn gió mới cho cách mạng đầu thế kỷ XX. Điều này rất quan trọng cho nỗ lực cách mạng của Việt Nam vào thời điểm khó khăn nhất.
4. Nghiên cứu
Phan Bội Châu là người mở đầu cho văn chương trữ tình chính trị. Thơ của ông có sức mạnh chiến đấu mạnh mẽ, khi đọc thơ của Phan Bội Châu, lý trí chưa kịp nhận thức và tán thành thì trái tim đã bị nó hoàn toàn chinh phục. Giá trị của thơ văn của Phan Bội Châu nằm ở cảm xúc cách mạng chân thành, sôi nổi. Ông thẳng thắn và trực tiếp ủng hộ cách mạng. Bài thơ Xuất dương lưu biệt thể hiện những đặc điểm nổi bật của phong cách thơ tuyên truyền cách mạng của Phan Bội Châu.
Sinh ra và lớn lên vào thời kì nhạy cảm nhất của lịch sử dân tộc, Phan Bội Châu chứng kiến dân tộc rơi vào vòng đô hộ của thực dân Pháp. Ông cũng chứng kiến sự thất bại của phong trào Cần vương nhưng cũng sống trong không khí đổi mới do ảnh hưởng của Tân thư đang truyền vào Việt Nam một cách mạnh mẽ. Năm 1905, sau khi Duy tân hội được thành lập, Phan Bội Châu được giao nhiệm vụ sang Nhật để đặt cơ sở đào tạo cốt cán cho phong trào cách mạng trong nước. Xuất dương lưu biệt được sáng tác trong buổi chia tay lên đường. Bài thơ là sự nối tiếp xuất sắc của cảm hứng về chí làm trai của văn học truyền thống từ thời Phạm Ngũ Lão đến Nguyễn Công Trứ.
Hai câu thơ này đã thể hiện một lí tưởng đẹp của con người. Con người phải làm chủ bước đi của lịch sử, phải tích cực tham gia vào sự vận động của thế sự. Việc khởi đầu bằng việc khẳng định lí tưởng truyền thống đã tạo nên tâm thế để tiếp tục khẳng định: 'Trong khoảng trăm năm cần có tớ, sau này muôn thuở, há không ai?'
Năm niên ưu tú có tớ, khởi đầu chờ sau sự vô hình.
Một lời khẳng định quyết liệt về sức mạnh của con người trước thử thách. Ý thức về cái Tôi đã được tác giả thể hiện rất rõ bằng cách tạo ra sự ngang bằng giữa 'tớ' và 'khoảng trăm năm'. Đây không phải là sự ca ngợi cái Tôi một cách bi quan hay cực đoan như một số nhà thơ sau này, mà là sự khẳng định trách nhiệm của mỗi người, đặc biệt là thanh niên, đối với vận mệnh của dân tộc. Câu thơ đưa ra lời kêu gọi, thức tỉnh tinh thần đấu tranh của con người. Là một nhà lãnh đạo cách mạng đầy tâm huyết, Phan Bội Châu luôn có ý thức kêu gọi mọi người cùng góp sức vào cuộc chiến. Để đánh thức thanh niên thời kỳ đầu thế kỷ XX đang ngủ quên vì những thứ tiêu khiển được nhập từ phương Tây, ông đã sáng tác Bài ca chúc tết thanh niên (1927). Từ tác phẩm này, rất nhiều thanh niên đã bắt đầu đi tìm con đường cứu nước.
Sau khi khẳng định tinh thần đấu tranh, nhà thơ lại nói đến trách nhiệm của từng người đối với dân tộc. Tấm lòng và nhân cách cao đẹp của một nhà nho, một con người chân chính được thể hiện ở đây:
Giang sơn đã chết, sống thêm nhục,
Hiền thánh còn đâu, học cũng hoài!
Hai câu thơ vẫn tiếp tục được viết dưới hình thức đối ngẫu quen thuộc của thơ cổ điển, vừa khẳng định ý chí vừa là sự quyết tâm của người chiến sĩ. Trong hoàn cảnh đất nước lâm nguy, đi tìm con đường cứu nước là lí tưởng đúng đắn. Lúc này, khi dân tộc bị mất tự do, chủ quyền đất nước bị xâm lược, thì việc đầu tiên, cần thiết nhất không phải ngồi đó để học những điều văn học cổ điển nữa. Câu thơ không có ý chỉ trích hay bài xích chuyện học đạo thánh hiền mà chỉ có ý khuyên con người sống hòa hợp với thực tại. Đất nước mất thì nhà tan, thân nô lệ làm sao có thể theo đuổi đạo đức thánh hiền. Câu thơ còn thể hiện nỗi xót xa của nhà thơ. Đất nước bị xáo trộn, dân chúng lầm than, đói khổ, đạo đức xã hội suy đồi khiến những người có trách nhiệm với dân tộc phải suy nghĩ mà đau lòng. Trên thực tế, khi thực dân Pháp xâm lược đất nước ta, văn hóa phương Tây vốn rất xa lạ với người phương Đông đã ồ ạt tràn vào Việt Nam, mang theo nhiều điều mới mẻ nhưng cũng không ít rác rưởi. Nó đã gây ra sự xáo trộn nghiêm trọng trong nền đạo đức, luân lí xã hội. Và trở thành nỗi đau đớn của những nhà nho coi trọng 'tam cương ngũ thường'. Non sông bị chà đạp, dân tộc mất tự do, nền luân lí, đạo đức xã hội bị đảo lộn đã khiến những người có trách nhiệm với dân tộc như Phan Bội Châu đau lòng. Từ những từ như 'chết', 'nhục', 'ngu' đã thể hiện thái độ khinh thường của tác giả đối với những người tự ngủ mình bằng cách ngồi đọc sách thánh hiền trong lúc dân tộc đang lầm than, đồng thời khẳng định ý chí hiên ngang, bất khuất của một nhân cách cao đẹp. Vì thế, đã nảy sinh quyết tâm ra đi tìm con đường cứu nước:
Nguyện vượt biển Đông theo cánh gió,
Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi.
Khí thế ra đi rất hùng dũng và đầy quyết tâm, tràn đầy sức mạnh. Câu thơ cuối cùng khẳng định bầu nhiệt huyết đang sục sôi của người ra đi. Hướng về phía đông (cụ thể là nước Nhật), người ra đi với một quyết tâm rất cao. Bản dịch chưa thể dịch hết được tinh thần của nguyên tác trong ba chữ 'nhất tề phi'. Cảm giác mạnh mẽ, hùng dũng, đầy nhiệt huyết và hy vọng được thể hiện rõ nét ở câu thơ cuối cùng này. Hình ảnh kết thúc bài thơ hào hùng, lãng mạn, thể hiện tư thế ra đi đầy khí phách của con người trong thời đại mới. Người ra đi đã gửi gắm bao nhiêu hi vọng vào con đường mình đã chọn.
Tiếp tục thể hiện chí làm trai của văn học truyền thống nhưng Phan Bội Châu đã mang đến cho chí khí ấy một sắc màu, một khí thế mới, hiện đại hơn. Bài thơ không chỉ có ý nghĩa động viên khích lệ thế hệ thanh niên lúc đó mà còn thể hiện một lẽ sống đẹp, là bài học làm người cho thanh niên - tầng lớp hùng hậu và mạnh mẽ nhất - mọi thời đại. Nhân vật trữ tình trong bài thơ là hình tượng đẹp về một nhà nho tiến bộ đầu thế kỉ XX với lí tưởng cứu nước, khát vọng sống, chiến đấu vì dân tộc, lòng tin và ước mơ về một tương lai tươi sáng.
Lời tạm biệt đầy nhiệt huyết, tâm thế ra đi đầy hào hứng và hiên ngang, bài thơ là khúc tráng ca của một thời đại đau thương nhưng đáng tự hào của dân tộc Việt Nam. Và là tấm gương sáng ngời muôn thuở để người đời sau soi mình. Đó là những giá trị bất diệt của Xuất dương lưu biệt.
Liên hệ:
“Cái khó là vừa phải làm sao cho xứng với cha ông, lại vừa không thể quay lại con đường của cha ông. Gạt bỏ cái thái độ thụ động chờ thời không đúng, nhà chí sĩ họ Phan sẵn sàng đấu tranh để tách mình với quá khứ:
Sinh viên nam tử yếu hèn…
Quay lưng đi trước những tượng đài cũ kỹ, gạt bỏ mọi thứ cũ kỹ để bước vào cuộc hành trình gian khổ tìm kiếm con đường cứu nước mới, hình ảnh một con người như vậy thật đẹp đẽ!
... Trên đầu thế kỷ XX, Phan Bội Châu là biểu tượng của một thế hệ đang từ bỏ gánh nặng tinh thần của tầng lớp mình để chuyển hướng sang những ý thức mới…
(Nguyễn Huệ Chi, Người yêu nước và văn sĩ Phan Bội Châu, NXB Khoa học xã hội, 1970)
Nhiệt huyết của nhà chí sĩ vẫn hiện diện trong nhiều tác phẩm của Phan Bội Châu, trong đó có bài Chơi xuân.
Quân không nhìn về phía Nam, Xuân tự cổ danh sĩ
Đã chơi xuân đừng để ý chi nhiều:
Khi ngâm nga xáo trộn cổ, vàng đi,
Chùa tám cõi gói vào trong một túi.
Thơ rằng:
Nước non Hồng Lạc vẫn còn đây mãi,
Mặt mũi anh hùng liệu có chịu đựng không!
Giang sơn vẫn tô điểm mặt nam nhi
Sinh thời thế phải xoay chuyển thời đại.
Phùng xuân hội có lẽ cũng dễ thôi,
Nắm đất cầu chỉ là một chút nhỏ nhoi!
Đạp toang hai cánh của càn khôn,
Đưa xuân về lại trong non nước ta!
Hai vai gánh nặng với sơn hà,
Đã chơi, chơi nốt, ố là xuân ơi!
Đối tác du lịch của tôi