I - Khám phá tổng quan
1. Tác giả
- Thạch Lam cùng với Nhất Linh và Hoàng Đạo là những tác giả nổi bật của nhóm Tự lực văn đoàn. Tuy nhiên, phong cách sáng tác của Thạch Lam có đặc điểm riêng so với hầu hết các nhà văn lãng mạn thời kỳ 1930 – 1945.
- Các tác phẩm chủ yếu: Gió đầu mùa, Nắng trong vườn, Sợi tóc (tập truyện ngắn), tiểu thuyết Ngày mới, tiểu luận Theo dòng, tuỳ bút Hà Nội băm sáu phố phường…
- Văn của Thạch Lam mang một âm điệu trữ tình đặc biệt. Nhẹ nhàng, đầy tình cảm và phong phú về thơ, tác phẩm của Thạch Lam có khả năng xâm nhập sâu vào lòng độc giả. Dù viết về cuộc sống khó khăn hay về vẻ đẹp của Hà Nội xưa, văn của Thạch Lam luôn thấm đẫm tinh thần nhân văn.
2. Hai đứa trẻ là một tác phẩm ngắn xuất sắc, tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của Thạch Lam. Một cách rất nhẹ nhàng nhưng sâu lắng, qua tâm trạng của hai đứa trẻ và cảnh sống khốn khổ của những người dân trong xóm người nghèo, nhà văn đã thể hiện sâu sắc tư tưởng nhân đạo về bản sắc con người. Tác phẩm không chỉ có giá trị hiện thực mà còn chứa đựng tinh thần nhân đạo.
Trong những truyện ngắn của Thạch Lam, thường không có một cốt truyện rõ ràng; tác giả thường đi sâu vào việc mô tả tâm trạng nội tâm của nhân vật với những cảm xúc và cảm giác mơ hồ, mong manh. Sự mô tả tinh tế, sâu sắc về những biến động nội tâm của nhân vật là điểm mạnh của Thạch Lam. Trong Hai đứa trẻ, nhà văn đã thành công trong việc sử dụng các kỹ thuật nghệ thuật đối lập, tương phản để mô tả cảnh khó khăn và tương lai u ám của những người dân trong xóm người nghèo. Với ngôn từ tâm trạng, biểu hiện tinh tế và đầy thơ mộng, tác phẩm mang lại cho độc giả những cảm xúc sâu lắng và nhân văn.
3. Giọng đọc nhẹ nhàng, thể hiện sự tinh tế của cảm xúc và diễn biến tâm trạng của hai chị em Liên.
Thạch Lam là một cá nhân đặc biệt trong Tự lực văn đoàn. Mặc dù là thành viên của nhóm, nhưng phong cách sáng tác của ông không giống với các nhà văn khác trong nhóm. Các tác phẩm của Tự lực văn đoàn thường tập trung vào tầng lớp trí thức nhỏ giới. Những nhân vật thường là những người Tây học, những cô gái trẻ với những khung cảnh lãng mạn, những câu chuyện tình yêu đẹp đẽ. Họ tiến bộ hơn, thể hiện sự phản kháng của giới trẻ với những cấu trúc xã hội cổ hủ và những nguyên tắc phong kiến khắt khe. Tuy nhiên, Tự lực văn đoàn chủ yếu tập trung vào cảm hứng lãng mạn tiêu cực, tránh né hiện thực bằng cách xây dựng những thế giới mơ mộng để tự an ủi. Trái lại, Thạch Lam luôn chú trọng vào hiện thực đau thương. Ông chú trọng vào những số phận nhỏ bé và bất hạnh của những người nghèo khổ. Không gay gắt như Vũ Trọng Phụng, không sâu xa như Ngô Tất Tố, cũng không hài hước như Nguyễn Công Hoan trong việc phản ánh hiện thực, nhưng văn của Thạch Lam vẫn thể hiện sâu sắc những giá trị hiện thực.
Truyện ngắn của Thạch Lam thường mang đậm tình trữ tình và không cần phải có một cốt truyện rõ ràng. Ông không tạo ra những tình huống kịch tính, gay cấn, cũng không tập trung vào những cuộc đấu tranh giữa thiện và ác, giàu nghèo. Thạch Lam chỉ mô tả những cảm xúc tâm trạng nhẹ nhàng, sâu lắng, nhưng vẫn phản ánh hiện thực và thể hiện tư tưởng nhân văn sâu sắc. Hai đứa trẻ là một câu chuyện bình thường về một ngày thường như bao ngày khác ở một phố huyện. Tác giả chọn bối cảnh là một ngày chợ. Truyện bắt đầu khi chợ chiều dần tàn. Các tình tiết được kể một cách tự nhiên theo thời gian tuyến tính. Cuộc sống của chị em Liên và những người dân trong xóm như bác Xẩm, mẹ con chị Tí, bác phở Siêu, đều là những hình ảnh bàng bạc, lặng lẽ và lầm lụi. Chuyện của chợ tàn, chờ đợi chuyến tàu đêm với một chút hi vọng nhỏ trong ánh sáng trên những toa tàu, ký ức về những ngày sống sung túc ở Hà Nội của hai đứa trẻ và những suy nghĩ của cô bé Liên, đó là những điểm cốt lõi của câu chuyện. Một câu chuyện giản dị, thường ngày, không phô trương và một cách kể chuyện nhẹ nhàng nhưng sâu lắng với chính bản thân mình, đó là những nét đặc biệt trong nghệ thuật kể chuyện của Thạch Lam trong Hai đứa trẻ.
Trong Hai đứa trẻ, nhà văn chú trọng vào việc mô tả nội tâm của nhân vật. Điều này khiến Hai đứa trẻ trở thành một tác phẩm truyện ngắn trữ tình. Tác giả tập trung vào việc mô tả tâm trạng của cô bé Liên. Cảnh vật cũng được miêu tả qua góc nhìn của Liên. Là nhân vật trung tâm, hành động của Liên không được mô tả chi tiết. Câu chuyện chính là dòng chảy của tâm trạng nhân vật, từ cảnh chiều dần tàn đến chuyến tàu đêm đi qua. Liên có thể coi là một nhân vật trữ tình trong văn xuôi. Thông qua cảm nhận của Liên về cuộc sống xung quanh, tác giả thể hiện sâu sắc nỗi buồn và số phận con người. Nỗi buồn của Liên ngày càng trầm trọng theo sự tối dần của đêm. Khi chợ dần tàn, khi chiều buông, sự buồn bã của Liên trở nên khó diễn đạt hơn. Khi bóng đêm phủ lên, “một đêm hạ êm ái như nhung”, nỗi buồn lại trở nên lớn hơn. Cuộc sống quá đơn điệu. Không có gì thay đổi. Nỗi buồn của Liên không được diễn tả trực tiếp qua lời nói, mà qua ánh mắt “trong mắt chị tràn ngập bóng tối”, qua cảm giác chờ đợi chuyến tàu đêm. Cuộc sống nơi phố huyện nghèo nàn đó là sự bế tắc, lặng lẽ và u tối. Những người như chị em Liên tìm kiếm một chút an ủi tinh thần. Họ dành hàng đêm để chờ đợi chuyến tàu đêm, với hy vọng mong manh. Liên và An mong chờ chuyến tàu để gặp lại ánh sáng của những ngày hạnh phúc đã qua. Những người bán hàng chờ đợi khách xuống tàu, dù biết rằng ít khi có khách xuống ở ga nhỏ này. Họ đều hy vọng, và khi chuyến tàu đi qua, một ngày mới lại kết thúc. Chuyến tàu là nơi gửi gắm niềm hy vọng của họ mỗi đêm, và nó mang lại một chút ánh sáng mới cho phố huyện, dù chỉ trong một thoáng chốc, để họ thoát khỏi cảm giác yên bình và u tối của đêm. Đó là thời điểm vui nhất của chị em Liên, vì chuyến tàu là nguồn sáng tinh thần duy nhất giúp chị nhớ lại những kỷ niệm đã qua. Chuyến tàu mang lại chút sống động trong chốc lát, nhưng cũng làm tăng lên sự tĩnh lặng và ảm đạm của đêm phố huyện. Qua nội tâm của nhân vật, tác giả đã thể hiện một cách sâu sắc thảm kịch tinh thần của những con người nhỏ bé. Những người như thế dễ bị xã hội lãng quên. Tâm trạng của Liên là tâm trạng chung của những người sống trong sự bế tắc của số phận nhỏ bé và nghèo nàn. Tác giả đã thể hiện một sự cảm thông sâu sắc và tình yêu đối với những người không may mắn.
Giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm còn thể hiện qua việc chọn lựa và sáng tạo chi tiết. Thạch Lam đã chọn những chi tiết tạo cảm xúc và sử dụng thủ pháp đối lập, tương phản, để mô tả thành công cảnh nghèo khổ và cuộc sống u tối của nhân dân nơi phố huyện nghèo xưa. Miêu tả sự nghèo khổ, tàn tạ, tác giả không tập trung vào nhà cửa, cửa hàng hay sinh hoạt hàng ngày, mà chọn tả cảnh chợ tàn với hình ảnh “mấy đứa trẻ con nhà nghèo ở ven chợ cúi lom khom trên mặt đất đi lại tìm tòi. Chúng nhặt nhạnh thanh nứa, thanh tre, hay bất cứ cái gì có thể dùng được của người bán hàng để lại…”. Nhưng chắc chắn là chúng khó có thể tìm được gì, vì những gì bị bỏ lại ở chợ chỉ là minh chứng cho sự nghèo khó của vùng quê. Cảnh chợ tàn luôn gợi lên sự buồn bã và tràn ngập tàn tạ, đặc biệt là vào phiên chợ chiều nghèo khó. Chỉ qua những chi tiết nhỏ nhặt như vậy, Thạch Lam đã khiến người đọc cảm thấy buồn sâu sắc. Khi mô tả cảnh nghèo đói, Ngô Tất Tố khiến chị Dậu phải bán chó, bán con, thậm chí còn phải bán mình. Nguyễn Công Hoan khiến vợ chồng anh Pha gặp rất nhiều khó khăn, Nam Cao khiến Chí Phèo, khiến nhà văn Hộ mất cả bản tính con người. Nghèo đói làm hủy hoại cả thể xác và tâm hồn con người. Thạch Lam lại khác. Nhẹ nhàng nhưng thấm thía, tác giả trữ tình này để cuộc sống tự mình hé lộ và bản chất xã hội tự nó tự hiện. Cách lựa chọn chi tiết độc đáo của Thạch Lam chính là điều đó. Chỉ cần thông qua chi tiết, tác giả đã tái hiện được cả bộ mặt thực tế của cuộc sống.
Nghệ thuật lựa chọn chi tiết tiếp tục được thể hiện khi mô tả cảnh đêm. Tác giả đã sử dụng ánh sáng để tạo ra hình ảnh bóng tối. Ánh sáng từ ngọn đèn dầu ở gánh hàng nước của chị Tí, ở gánh phở của bác phở Siêu làm nổi bật sự u tối của đêm tối ở làng quê. Sự tương phản trong nghệ thuật tạo ra cảm giác rõ ràng hơn về sự u tối của đêm tối. Ánh sáng từ đoàn tàu vụt qua trong chớp mắt với những tiếng ồn ào và sôi động làm tăng thêm cảm giác yên bình, tăm tối và buồn tẻ của phố huyện nghèo. Và ánh sáng từ ngọn đèn dầu của chị Tí rồi dần dần tắt đi trong giấc ngủ của Liên – hình ảnh cuối cùng của câu chuyện- để lại một ấn tượng cuối cùng, một cảm giác lưu lại cho tác phẩm.
Thạch Lam đã một cách nhẹ nhàng và tinh tế vẽ lên một bức tranh đầy sức lôi cuốn về một phố huyện nghèo. Thông qua tâm trạng của Liên, cuộc sống của hai chị em và cả cộng đồng ở phố huyện đó, tác giả không chỉ phản ánh hiện thực mà còn thể hiện một tư tưởng nhân văn sâu sắc và bền vững. Trước hết, tác phẩm là một bức tranh chân thực về cuộc sống ở phố huyện nghèo với những số phận bất hạnh (hai đứa trẻ, chị bán hàng nước ban ngày và đi mò cua xúc tép, vợ chồng người hát xẩm…). Không ai đảm bảo cho tương lai của họ. Phía trước họ là sự tối tăm, dù ánh sáng của hy vọng có nhưng chỉ le lói nơi họ đang ngồi. Cuộc sống dù khó khăn, u tối và bế tắc đến đâu cũng không thể làm tắt đi hy vọng và khát vọng của con người.
Tác phẩm đã truyền đạt một thông điệp tình yêu và sự trân trọng sâu sắc của tác giả đối với những số phận nhỏ bé trong xã hội. Một câu chuyện nhẹ nhàng nhưng mang giá trị sâu sắc và ý nghĩa. Với một phong cách riêng, ngòi bút của Thạch Lam đã đánh thức tinh thần nhân đạo trong mỗi con người và khơi dậy những tình cảm cao đẹp.
III - Liên hệ
1. Vậy có thể kết luận rằng: Sức hấp dẫn chủ yếu của các tác phẩm của Thạch Lam nằm ở tâm hồn dân tộc. Thật vậy, có thể nói thêm rằng: Tinh thần dân tộc trong tâm trí của nhà văn Thạch Lam đã ảnh hưởng rất nhiều đến quan điểm sáng tạo hiện thực cũng như tinh thần nhân văn (với tình cảm hướng về cộng đồng: “Bầu ơi thương lấy bí cùng…”, và lòng trắc ẩn: “Thương người như thương thân”…). Rồi cũng chính tính cách Việt đã thể hiện qua nét văn phong đặc biệt của tác giả Gió đầu mùa, là tính “duy cảm” đặc trưng của người Việt: “Trong các tác phẩm ngắn của tập Gió đầu mùa của Thạch Lam, chúng ta thấy rất nhiều đoạn mà cảm xúc, cảm giác hay tình cảm có một vị trí quan trọng, thậm chí là chìa khóa cho cả một câu chuyện” (Vũ Phan – Nhà văn hiện địa; tập thư, tập hạ). Tinh thần dân tộc đọng chất trong trái tim, ý thức dân tộc sáng rực trong tâm trí; do đó Thạch Lam mới có thể viết ra những dòng như một tuyên ngôn về niềm tự hào dân tộc trong tác phẩm bút ký đặc biệt Hà Nội băm sáu phố phường: “Người Pháp có Paris, người Anh có London, người Tàu có Thượng Hải… Trong các sách, trên các báo, họ nói về thành phố của họ với tình cảm tha thiết, yêu mến… Chúng ta phải nghe người Pháp nói về Paris, người ở Paris mới cảm nhận được sự yêu quý đó đến mức nào. Chúng ta cũng có Hà Nội, một thành phố đẹp với nhiều đặc điểm đẹp, bởi Hà Nội thực sự đẹp (chúng ta chỉ cần khám phá). Và chính vì chúng ta yêu mến. Yêu mến Hà Nội cũng như người dân Paris yêu mến Paris…”; và mới có được những cảm nhận phong phú và tinh tế khi trải nghiệm vẻ đặc biệt của món quà dân tộc “đặc sắc bình dân” là cốm mới mùa thu: “Cơn gió mùa hạ thổi qua những cánh đồng lúa non, thấm đẫm hương thơm của lá, như một điềm báo cho mùa thu sắp đến của một món quà thanh nhã và tinh khiết. Bạn đã từng ngửi thấy không, khi đi qua những cánh đồng xanh, và hạt lúa non làm trĩu nặng thân lúa còn non mơn mởn, bạn đã từng ngửi thấy mùi hương mát dịu của lúa non chưa ? Trong vỏ xanh ấy, có một giọt sữa trắng, mang hương vị của hàng nghìn hoa cỏ. Dưới ánh nắng, giọt sữa dần dần cứng lại, cánh đồng lúa càng ngày càng cong xuống, nặng vì hạnh phúc trong sạch của Trời […]. Cốm là món quà đặc biệt của dân tộc, là sản phẩm của những cánh đồng lúa bát ngát xanh, mang trong mình hương vị tất cả sự giản dị, mộc mạc và tinh khiết của quê hương Việt Nam” (Hà Nội băm sáu phố phường).
Truyện ngắn Hai đứa trẻ có thể coi như một phiên bản nhỏ gọn của các đặc điểm về nội dung, tư tưởng, và phong cách văn học của Thạch Lam như đã được đề cập ở trên.
(Văn Tâm, Bài giảng về Văn học Việt Nam, Nhà xuất bản Giáo dục, 1997)
2. Tài năng của Thạch Lam hiện lên ở điểm: Sự thanh nhẹ, sự tinh tế, chỉ bằng một vài trang văn ngắn nhưng mang đậm chất thơ đã đưa người đọc đến với một thế giới của cuộc sống u tối, buồn bã, đầy đau thương... đặc biệt là những đứa trẻ. Vì điều đó, tác phẩm là một lời kêu gọi: Hãy cứu lấy cuộc sống của những con người như Liên và An, hãy cố gắng cải thiện tình hình khó khăn của những người sống ở những “ao đời” cùng bị mắc kẹt...
(Đỗ Nguyên Thương, Tìm kiếm vẻ đẹp trong văn học, Hội Văn học nghệ thuật Phú Thọ, 2006)
3. …Trong văn hóa Việt Nam trước Cách mạng 1945, Thạch Lam là một trong những tác giả được độc giả ưa chuộng. Văn của Thạch Lam đầy hình ảnh, đầy sáng tạo, có phong cách dịu dàng, giản dị và sâu sắc. Không chỉ thoát khỏi khuôn mẫu của văn chương hiện đại mà còn đem lại nhiều giá trị sáng tạo, văn học của Thạch Lam truyền đạt nhiều suy tư, là kết quả của một trí tuệ nhạy cảm và trải nghiệm sâu rộng về cuộc sống. Thạch Lam có những quan sát tinh tế về cuộc sống hàng ngày. Xúc cảm của Thạch Lam thường bắt nguồn và phát triển từ lòng yêu thương với những người dân nghèo ở thành phố và nông thôn. Thạch Lam là một nhà văn trân trọng cuộc sống, tôn trọng mọi hình thức của sự sống. Ngày nay, đọc lại tác phẩm của Thạch Lam, vẫn cảm nhận được sự sâu sắc và sự thú vị của những tác phẩm có chất lượng và phẩm chất văn học cao. Mặc dù xuất bản ít, nhưng tác phẩm của Thạch Lam vẫn ghi dấu lại tinh thần sâu sắc, rộng lớn và tiến bộ của một nhà văn trung thực…