Yêu cầu: Có một quan điểm rằng: 'Độc Tiểu Thanh kí là bức tranh thể hiện cảm xúc và suy nghĩ của Nguyễn Du về đời sống của những người tài năng trong xã hội thời phong kiến'. Mong anh/chị phân tích bài thơ 'Đọc Tiểu Thanh kí' để làm rõ quan điểm trên.
Phân tích chi tiết bức tranh văn hóa trong bài thơ Đọc Tiểu Thanh kí để làm sáng tỏ quan điểm
Bài làm mới:
Nguyễn Du - một nhà thơ vĩ đại của dân tộc, là biểu tượng văn hóa toàn cầu, một nhà văn xuất sắc trong thời kỳ văn hóa trung đại Việt Nam. Các tác phẩm của ông đều chứa đựng những cảm xúc sâu sắc về thời đại, về số phận con người, đặc biệt là những người tài năng nhưng đen đủi. Ngoài Truyện Kiều - kiệt tác văn thơ Nôm thể hiện điều đó, bài thơ 'Đọc Tiểu Thanh kí' cũng là một sáng tác bằng chữ Hán cùng chủ đề. Bài thơ này thể hiện cảm xúc và tâm tư của Nguyễn Du về số phận của những người tài sắc trong xã hội phong kiến.
Nguyễn Du sáng tác bài thơ này khi đang thực hiện nhiệm vụ ngoại giao ở Trung Quốc. Ông dựa trên một câu chuyện thực tế về nàng Tiểu Thanh tại Trung Quốc. Nàng là một cô gái không chỉ xinh đẹp mà còn tài năng về văn thơ. Tuy nhiên, số phận của nàng trở nên bi thảm khi bị ép kết hôn với một người đàn ông giàu có. Nàng bị đánh đập, đày ải ở một nơi hoang dã, cô đơn và chỉ biết thấu hiểu lòng mình qua việc sáng tác thơ. Dù có tài năng và sắc đẹp, nàng chết đau đớn khi mới 18 tuổi. Tên của bài thơ mở ra nhiều cách hiểu, nhưng dù thế nào, ta vẫn cảm nhận được tình yêu thương của nhà thơ dành cho những người tài sắc bạc mệnh như Tiểu Thanh.
Bài thơ khai mạc bằng hai câu đề là biểu tượng của tiếng thở dài từ tâm hồn tác giả trước sự biến đổi của cảnh đẹp, đồng thời là lời thương cảm đối với số phận đau khổ của người con gái.
'Tây Hồ hòa mình trong vẻ đẹp tuyệt vời
Bên cạnh đó, độc đáo như một tấm thư.'
(Tây Hồ, nơi tô điểm bởi cảnh đẹp hoang sơ
Đau lòng, ngày nay chỉ còn lại những mảnh giấy rách.)
Khi nhắc đến Tây Hồ, hình ảnh vườn hoa tươi tắn nằm bên bờ hồ sẽ hiện lên trong tâm trí của người đọc. Tuy nhiên, qua lời thơ, từ 'tẫn' đã phản ánh sự thay đổi lớn về cảnh đẹp, đồng thời mang theo nỗi tiếc nuối của tác giả. Một thời trước đây nơi đây tươi đẹp, và thơ văn cũng hương thơm nhưng giờ đây nó đã trở thành 'gò hoang'. Cảnh đẹp đã hoang tàn, trong khi con người xuất hiện giữa bức tranh ấy lại cảm nhận những 'mảnh giấy tàn' - những đoạn thơ cuối cùng của nàng Tiểu Thanh. Dù thời gian đã trôi qua hơn 300 năm, cảnh vật có thay đổi nhưng tâm hồn của nhà thơ vẫn giữ mãi sự nhớ thương và thấu hiểu cho số phận bi thảm của người con gái tài sắc.
Qua hai dòng thơ, tác giả đã khám phá sâu hơn về hồn của người phụ nữ tài năng ấy:
'Son phấn hương thần, nằm yên sau cõi hậu thế
Văn chương vô mệnh, vẫn còn vuốt nhẹ phần dư.'
(Son phấn, nguyên vẹn thần thái, chôn sâu trong cõi hậu thế
Văn chương không mệnh, vẫn còn đọng lại hồn hương.)
Ở đây, tác giả tài tình sử dụng hình ảnh 'son phấn' và 'văn chương'. 'Son phấn' trở nên thần thái, tôn lên sau cõi hậu thế, nằm yên bình vững. 'Văn chương' mặc dù không có số mệnh, nhưng vẫn còn đọng lại như hương thơ phú, vương mãi không tan. Tác giả cảm thấy tiếc nuối cho Tiểu Thanh, nhưng đồng thời tôn trọng và giữ gìn những giá trị tinh thần của nàng. Hai dòng thơ này khiến chúng ta hiểu sâu hơn về tư tưởng đạo đức và nhân văn trong văn hóa trung đại, và Nguyễn Du đã thể hiện điều này trong hai câu tuyên bố của mình:
Nguyễn Du mang đến một triết lý mới về nhân đạo trong văn hóa trung đại, và ông đã tóm gọn tất cả trong hai câu luận:
'Kim cổ gặp trắc trở từ trời cao
Vận mệnh phong lưu, khó tự khắc.'
(Mối hận cổ kim, chẳng nơi tránh chạy
Có lẽ tác giả chứa đựng một nỗi hờn nào đó. 'Nỗi hờn kim cổ' - đó là mối thù lâu dài không nguôi từ thời xa xưa đến tận hiện tại. Không chỉ là của nàng Tiểu Thanh, mà còn là của những người tài năng khác. Những sự bất công ấy, tại sao những người có tài lại phải chịu bạc mệnh? Mỗi mối oan trở thành khó giải thích, nhưng tác giả tự nhận mình là người 'cùng hội cùng thuyền' nhìn nhận qua cụm từ 'khách tự mang', không thể tránh khỏi việc đối mặt với những gánh nặng không công vô cớ. Có thể thấy tác giả truyền đạt tình cảm của mình đối với những người tài năng như những người 'tri âm tri kỉ'.
Kết thúc bài thơ, Nguyễn Du tự đặt câu hỏi tu tâm hồn về tương lai:
'Ai biết sau ba trăm năm nữa
Người kia có khóc Tố Như không?'
(Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa Những từ ngữ ẩn sau cảm xúc sâu thẳm của tác giả đối với thế hệ tương lai: 'Chẳng biết...chăng?' Tác giả chia sẻ nỗi tiếc thương cho Tiểu Thanh từ 300 năm trước, và đặt câu hỏi liệu ai sẽ kể tiếp câu chuyện của Tố Như sau 300 năm, hay có ai đau lòng như ông. Một câu hỏi không lời đáp, đề cập đến tương lai, như cách tâm hồn của nhà thơ hiện tại cảm nhận về sự cô đơn và khát khao tìm thấy tiếng nói đồng lòng trong tri âm tri kỉ. Đọc giả sẽ nhận thức được tài năng tuyệt vời của Nguyễn Du qua cách ông sáng tạo, những kỹ thuật mà ông ứng dụng. Ông tận dụng khéo léo phép đối tượng trong hình ảnh và sử dụng ngôn từ sâu sắc. Với thể thơ Đường luật thất ngôn bát cú, kết hợp với ngôn từ triết lí, nhà thơ đã diễn đạt một cách tốt nỗi lòng về số phận đau thương của những người tài năng bạc mệnh.