Văn học dân gian Thần thoại |
Văn học viết Văn học đời Tiền Lê |
Khác Thơ Việt Nam |
Văn học Việt Nam là lĩnh vực nghiên cứu, phân tích, và sáng tác các tác phẩm ngữ văn của người Việt, không phân biệt quốc tịch và thời đại.
Tổng quan
Văn học dân gian là nền tảng cơ bản của văn học viết, là giai đoạn đầu tiên của văn học dân tộc. Trước khi có chữ viết, văn học Việt Nam chủ yếu là văn học dân gian; khi chữ viết ra đời, văn học Việt Nam bao gồm cả văn học dân gian và văn học viết.
Văn học viết chịu ảnh hưởng sâu sắc từ văn học dân gian cả về nội dung và hình thức. Đồng thời, văn học viết cũng tác động trở lại văn học dân gian ở một số khía cạnh. Mối liên hệ giữa hai loại hình văn học này, cùng với ảnh hưởng của văn học dân gian đối với văn học viết, được thể hiện rõ nét trong các sáng tác và thơ văn quốc âm.
Văn học dân gian Việt Nam, giống như văn học dân gian của nhiều nền văn hóa khác, bao gồm các thể loại chung và riêng, tạo thành một hệ thống phong phú. Mỗi thể loại phản ánh cuộc sống qua những nội dung và hình thức riêng biệt. Hệ thống văn học dân gian Việt Nam bao gồm: sử thi, truyền thuyết, thần thoại, truyện cổ tích, truyện ngụ ngôn, truyện cười, tục ngữ, câu đố, ca dao, vè, thơ, và chèo.
Sau hơn một thiên niên kỷ phát triển, văn học viết Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng kể và vẫn tiếp tục phát triển để hòa nhập vào nền văn học toàn cầu.
Các thể loại
Trước thời kỳ Đổi Mới, văn học Việt Nam thường được phân chia thành hai loại: văn học truyền khẩu và văn học thành văn. Tuy nhiên, với sự xuất hiện của nhiều xu hướng nghiên cứu và phê bình mới, dòng văn học hiện nay đã trở nên đa dạng và phân nhánh phức tạp.
Văn học dân gian Việt Nam
Văn học dân gian là những tác phẩm nghệ thuật truyền miệng của cộng đồng, ra đời từ thời kỳ công xã nguyên thủy và tiếp tục phát triển qua các giai đoạn lịch sử đến hiện tại.
Ba thuật ngữ sau đây thường được coi là đồng nghĩa: Văn học dân gian, những sáng tác nghệ thuật truyền miệng của người dân, và folklore ngôn từ (folklore văn học).
- Đặc điểm nguyên hợp: Sự hòa quyện của nhiều hình thức biểu đạt xã hội trong các thể loại. Văn học dân gian không chỉ là nghệ thuật ngôn từ mà còn là sự kết hợp của nhiều phương tiện nghệ thuật khác nhau, tồn tại dưới ba dạng: ẩn (lưu giữ trong trí nhớ của tác giả dân gian), cố định (lưu giữ dưới dạng văn bản) và hiện (biểu hiện qua diễn xướng).
- Đặc điểm tập thể: Mặc dù văn học dân gian là sản phẩm của cộng đồng, không phải tất cả mọi người đều là tác giả. Đặc điểm tập thể chủ yếu thể hiện qua quá trình sử dụng tác phẩm.
- Đặc điểm truyền miệng: Văn học dân gian được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác qua hình thức kể chuyện.
- Đặc điểm dị bản: Vì là sản phẩm của cộng đồng và không được cố định trong một văn bản, văn học dân gian thay đổi dần khi được truyền qua các vùng khác nhau.
Các đặc điểm này có mối liên hệ chặt chẽ và tạo nên sự khác biệt của văn học dân gian so với văn học viết.
Văn học viết
Văn học viết, khác biệt hoàn toàn với văn học dân gian, đánh dấu sự bắt đầu của một kỷ nguyên mới, đầy hào hứng và rực rỡ (theo Đặng Thai Mai). Mặc dù sự giao thoa kéo dài gần 10 thế kỷ giữa nền Hán học và văn hóa dân gian Việt Nam đã làm thay đổi một số giá trị văn hóa, tín ngưỡng, phong tục và nghệ thuật của người Việt, nhưng nó cũng đã ảnh hưởng đáng kể đến sự hình thành và phát triển của văn học viết.
Khám phá khảo cổ học đã chỉ ra rằng, từ thời đại Hùng Vương, người Việt đã sở hữu một nền văn hóa phong phú với nhiều đặc trưng rõ nét, thể hiện qua các thần thoại và truyền thuyết. Sau một thời gian dài tiếp xúc với nền văn hóa Trung Quốc, người Việt đã khéo léo chuyển hóa chữ Hán trên nền tảng văn hóa Việt, đọc theo âm điệu tiếng Việt mà vẫn truyền tải chính xác các giá trị tư tưởng, văn hóa, và triết học của cả Trung Quốc và Việt Nam.
Dựa trên truyền thống văn hóa có sẵn, ảnh hưởng của Hán học đã giúp người Việt xây dựng nền văn học độc lập của dân tộc và làm nền tảng để phát triển hệ thống chữ viết đầu tiên: chữ Nôm.
Sự thịnh vượng của Hán học trong thời kỳ Việt Nam giành lại quyền tự chủ so với thời kỳ bị nội thuộc cho thấy tính trang nghiêm và sâu sắc của chữ Hán rất phù hợp với cơ cấu phong kiến và tư tưởng Nho giáo thời bấy giờ. Trong giai đoạn này, trường học và các kỳ thi đều sử dụng chữ Hán như một 'công cụ giao tiếp tinh tế' để ghi chép lịch sử, truyền đạt ý kiến, và thể hiện mối quan hệ vua-tôi cùng các tầng lớp nho sĩ. Qua các biến động lịch sử, văn học viết dần tìm được cơ hội mới và khẳng định được vị trí độc lập của mình sau thời gian dài hòa quyện giữa văn, sử, và triết học. Ba dòng tư tưởng Nho, Phật, Lão trở thành nguồn cảm hứng phong phú cho văn chương học thuật, trong khi đời sống gần gũi thiên nhiên của con người thời kỳ này đã mang đến nhiều hình ảnh ẩn dụ thanh cao nhưng đầy nhân văn cho văn học.
Về mặt thể loại và hình thức, văn học viết thời kỳ đầu chủ yếu là thơ, chia thành hai loại chính: cổ thể và cận thể, vẫn giữ nguyên khuôn phép của thơ ca Trung Quốc. Theo Dương Quảng Hàm trong tác phẩm Văn học Việt Nam, văn học thời kỳ đầu có nhiều thể loại nhưng có thể phân thành ba loại chính:
- Vận văn: loại văn có vần
- Biền văn: loại văn không có vần nhưng có đối (như câu đối)
- Tản văn hoặc văn xuôi: loại văn không có vần và không có đối.
Từ cuối thế kỷ 18 trở đi, khi chữ Nôm được hình thành, văn học viết đã trải qua một số thay đổi trong sáng tác: các tác phẩm từ chiếu cung đình dần xâm nhập vào đời sống bình dân và cái tôi cá nhân bắt đầu được thể hiện rõ hơn. 'Bà chúa thơ Nôm' Hồ Xuân Hương và Truyện Kiều của Nguyễn Du được coi là những thành tựu nổi bật của chữ Nôm trong văn học Việt Nam.
Kể từ khi chữ Quốc ngữ được truyền bá vào Việt Nam, diện mạo của văn học đã có những thay đổi sâu rộng và toàn diện. Bên cạnh ảnh hưởng của các dòng tư tưởng truyền thống phương Đông, sự du nhập của phương Tây đã mang đến cho văn học viết con đường 'hiện đại hóa' từ hình thức, thể loại đến tư tưởng và nội dung sáng tác. So sánh văn học viết Việt Nam giữa hai thời kỳ lớn: văn học trung đại và văn học hiện đại, có thể tổng quát hóa các thể loại chính như sau:
- Thời kỳ văn học trung đại (từ thế kỷ 10 đến cuối thế kỷ 19) bao gồm: tự sự và trữ tình.
- Thời kỳ văn học hiện đại (từ đầu thế kỷ 20 đến nay) bao gồm: tự sự, trữ tình, và kịch.
Văn học trực tuyến
Kể từ đầu thập niên 2000, khái niệm 'web fiction' đã xuất hiện trong các giáo trình và luận văn khoa học ở nhiều cấp độ dưới tên gọi văn học trực tuyến. Đây là những tác phẩm hoặc bài luận phê bình được xuất bản trên không gian mạng, bao gồm cả internet và intranet. Với sự phát triển nhanh chóng của công nghệ thông tin toàn cầu, loại văn học này không thuộc dạng truyền khẩu hay thành văn, mà tồn tại độc lập nhưng vẫn tương hỗ với các thể loại truyền thống hơn. Một ví dụ điển hình từ giai đoạn đầu của văn học trực tuyến là bài thơ Đôi dép của Nguyễn Trung Kiên, thường được trích dẫn trong các nghiên cứu như một thành công của công nghệ thông tin trong việc phổ biến văn học. Dòng văn học này còn được coi là yếu tố quan trọng trong việc quảng bá văn học và ngôn ngữ Việt Nam ra thế giới - điều mà trước thế kỷ XXI chưa đạt được.
- Ngôn ngữ Việt
- Triết học Việt
- Nghệ thuật Việt
- Văn hóa Việt
Tài liệu tham khảo
- Tuyển tập văn học trung đại Việt Nam (Thế kỷ 10 - 19). Tập 1, Văn học từ thế kỷ 10 - 15/ Bùi Duy Tân (biên soạn); Nhà xuất bản Giáo dục, 2004
- Văn học sử Việt Nam. Dương Quảng Hàm; Nhà xuất bản Hội Nhà văn, 2002.
- Văn học Việt Nam. Dương Quảng Hàm, Bộ Giáo dục/ Trung tâm học liệu xuất bản, 1938.
- Nghiên cứu về Con người Qua Nhân Tướng Học và Văn Học Dân Gian Việt Nam. Lương Trọng Nhàn; Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin, 2010.
Danh mục tài liệu
- Viettouch. Trang web này chuyên quảng bá lịch sử và văn hóa Việt Nam; xem các đánh giá về trang web.
- Bách khoa toàn thư về Văn hóa Việt Nam
- Việt-Học Thư-Quán - Viện Việt Học Nhiều tài liệu PDF về sách văn học Việt Nam
- https://web.archive.org/web/20121112121058/http://thanglong.ece.jhu.edu/vhvn.html
- Dịch thơ Việt Nam
- Danh mục thơ Việt Nam
Nghệ thuật Việt Nam |
---|
Văn học Châu Á |
---|