I - Tìm hiểu tổng quan
1. Loại hình
Văn tế trong nền văn học thường được sử dụng trong các nghi lễ tế cúng; do đó, nó thường mang hình thức tế – hưởng. Ví dụ: mở đầu bằng Năm, tháng, ngày… kính mời linh hồn của ai đó; kết thúc bằng Ô hô, ai tai (Hỡi ơi ! Đau lòng !). Về ngôn ngữ, văn tế không bị ràng buộc về hình thức; người ta có thể sử dụng văn vần, tản văn, hoặc biền văn.
Một bài văn tế thường bao gồm các phần: Khởi đầu (tóm tắt về người đã khuất); Chân thực (tưởng nhớ những công đức của người đã mất); Lời than thở (buồn thương cho người đã khuất); Kết luận (đặt ra ý nghĩa của việc cúng tế và cầu chúc cho linh hồn người đã mất).
2. Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc được viết bởi Nguyễn Đình Chiểu để kỷ niệm những người nông dân dũng cảm đã đứng lên chống lại kẻ thù. Năm 1858, quân Pháp tấn công Đà Nẵng, người dân Nam Bộ đồng lòng đứng lên chống lại kẻ thù. Vào năm 1861, vào đêm 14 - 12, quân nghĩa quân tấn công căn cứ của kẻ thù tại Cần Giuộc, Gia Định, gây ra tổn thất cho kẻ thù, nhưng cuối cùng đã thất bại. Bài văn tế được viết theo yêu cầu của tuần phủ Gia Định, nhưng thể hiện tình cảm chân thành của Đồ Chiểu dành cho những người đã hy sinh cho nước nhà. Bài văn được cấu trúc theo kiểu của một bài văn tế:
- Khởi đầu (từ đầu đến tiếng reo hò rộn ràng): ấn tượng chung về những nông dân anh dũng đã hy sinh trong trận Cần Giuộc.
- Chân thực (từ Nhớ hồn xưa đến vùng lên bảo người): tưởng niệm về cuộc đời của những người nghĩa sĩ.
- Lời than thở (từ Máu sông ruộng đến khói lúa thiêng): tiếc thương cho những nghĩa sĩ.
- Kết (phần còn lại): lòng thương xót của người cúng tế đối với linh hồn người đã khuất.
Thông qua bài văn, hình ảnh những người nông dân anh dũng hiền lành đã hiện lên như một biểu tượng nghệ thuật vững chắc về lòng yêu nước của người dân Việt Nam. Sự căm hận đối với kẻ thù của những người nông dân anh dũng cũng là sự căm thù của Nguyễn Đình Chiểu.
3. Đọc bài văn bằng giọng điệu nghiêm túc, uy nghi. Chú ý thể hiện tính cân đối của các câu văn chéo nhau.
II - Kiến thức cơ bản
Thật là đúng khi khẳng định Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc là một trong những bài văn tế đặc sắc và cảm động nhất trong lịch sử văn học dân tộc. Lần đầu tiên trong lịch sử văn học dân tộc, có một tác phẩm nghệ thuật to lớn về người nông dân tương xứng với phẩm chất vĩ đại của họ - những người nông dân nghĩa sĩ chiến đấu chống quân giặc, bảo vệ đất nước.
Theo dòng kí ức, cuộc sống của những người nông dân nghĩa sĩ được tái hiện chân thực, sinh động. Họ là những người nông dân với:
Chạy đua với nghèo đói, lo lắng về số phận.
Chưa từng quen cưỡi ngựa, đến nay vẫn xa trường đào; chỉ biết cày cấy, sống giữa làng quê.
Vẫn là hình ảnh thân thuộc của người nông dân Việt Nam, chăm chỉ, kiên trì. Vẻ “chạy đua với nghèo đói”, dạng “lo lắng” như khẳng định từ sâu thẳm lòng biết ơn của con người. Người nông dân mặc nhiên làm việc, gặt hái với đất, trao mồ hôi cho ruộng. Giữa bao la cánh đồng và cỏ cây, bóng dáng người nông dân hiện rõ nghèo khó, giản dị. Họ sống trong nỗi đói khổ, nghèo đói. Người nông dân mô tả số phận mình thấu thiết, đáng suy ngẫm. Họ kể về những công việc cày cấy, mùa vụ, những công việc “sống ở quê”, “trong làng” cũng đơn giản, chân thành như chính cuộc sống của họ. Họ suy tư cũng đơn giản: đó là chuyện quen thường làm, chuyện vốn có. Do đó, họ dễ dàng phân biệt giữa những việc chưa quen làm và những việc quen làm, những cuộc chiến và những việc trên ruộng. Sự bất ngờ, kinh ngạc của họ khi “học súng”, “học quân”, “học cờ” cũng là điều dễ hiểu. Không gian “cuộc chiến” làm dao động cuộc sống yên bình của người nông dân. Tay cày, tay cuốc giờ được thay thế bằng tay vũ khí, tay quân trang. Tình thù oán giặc nổi lên bất diệt:
Tiếng súng nổ rền rện hơn mười tháng, trông thị trấn như thổ hào trông mưa; mùi hơi thuốc súng đậm đà đã ba năm, căm ghét kẻ thù như nông dân căm cỏ dại.
Khi thấy bóng dày che trắng bốn bánh xe, muốn đến ăn gan; ngày thấy khói đen phập phồng, muốn ra cắn cổ.
Mỗi từ, mỗi chữ trong văn tế đọng sâu nỗi thù hận nồng cháy: “ăn gan”, rồi “cắn cổ”…, Nguyễn Đình Chiểu thật tài tình khi đưa ngôn ngữ giản dị, thô sơ vào trong lời văn. “Ăn gan, cắn cổ” cũng là tiêu diệt hoàn toàn loài thú dữ, độc ác. Nguyễn Đình Chiểu khám phá ra tình yêu nước bùng cháy trong tâm hồn của người nông dân nghĩa sĩ. Không thể chịu đựng khi thấy vùng đất của họ bị tàn phá, họ từ bỏ cuộc sống làm ruộng để gia nhập quân ngũ, từ việc “chưa từng quen cưỡi ngựa đến trường đào”, đến việc “yêu nghĩa gia nhập quân đội”. “Cuộc chiến với kẻ thù” trở thành bối cảnh tiêu biểu để người nông dân tự trình bày chính mình. Đằng sau những con người nhỏ bé là một tinh thần chiến đấu, một sức mạnh bất thường. Tinh thần tự nguyện, hy sinh vì nghĩa vụ lớn đã trở thành lý tưởng cao cả của người nông dân nghĩa sĩ. Họ tự nguyện tham gia “trường đào” để hy sinh cho đất nước. Sẵn sàng hy sinh vì quê hương là biểu hiện cao quý nhất của lòng thù oán đối với kẻ thù và tình yêu quê hương của người nông dân nghĩa sĩ:
Không chờ ai ra lệnh, ai giao, lúc này tôi sẵn sàng mạnh mẽ đối đầu; không muốn trốn tránh, lùi bước, chuyến này tôi quyết tâm ra tay bảo vệ như hổ đội.
Nếu trước đây người dũng cảm “bước chân xuống thuyền nước mắt như mưa” thì nay trong thơ của Đồ Chiểu, hình ảnh người nông dân nghĩa sĩ tự nguyện cứu dân, cứu nước được khắc họa mạnh mẽ. Trong từng bước đi quyết liệt đánh giặc của họ, ta cảm nhận được niềm kiêng nể sâu sắc của tác giả. “Dân quân dùng tình yêu làm nguồn gốc, dùng lòng trung hiếu làm tôn trọng”. Chỉ vì “yêu nghĩa” mà trở thành nghĩa quân thì thực sự cao quý không tì vết. Tinh thần chiến đấu, hy sinh vì nghĩa vụ là phương châm sống, mục tiêu chiến đấu chống lại kẻ thù của người nông dân nghĩa sĩ:
Lửa mai đánh bằng rơm con cúi, cũng làm cháy cháy nhà giáo xứ kia; kiếm đeo sử dụng bằng lưỡi dao phay, cũng làm rơi đầu quan phản bội.
Khi nghe tiếng trống kêu nhức nhối, chạy đến và vượt qua hàng rào, coi thường kẻ thù như không, không sợ những viên đạn nhỏ lẫn to, dám đẩy cửa xông vào, liều mình như không có.
Người đâm từ phía sát bên, kẻ chém từ phía trên xuống, khiến cho mãi mãi linh hồn bị tổn thương; bọn quân giặc phía trước, lũ địch phía sau, phản ứng tưởng như không kịp với âm thanh của súng nổ từ tàu sắt tàu đồng.
Trong cuộc chiến không cân sức, tư thế của người nghĩa sĩ vẫn được nổi bật trên chiến trường. Họ tự tin, chủ động, tự do di chuyển. Mỗi từ, mỗi chữ trong văn tế phản ánh sự quyết tâm của họ trong cuộc chiến. Khi họ “đánh”, “đốt”, “chém”, khi họ “đạp rào”, “lướt tới”, khi “đâm ngang”, “chém ngược”… sự can đảm, sự quyết đoán trong tinh thần, trong hành động của họ. Các hành động liên tiếp và quyết liệt của họ được miêu tả qua một loạt động từ mạnh mẽ, tạo ra ấn tượng mạnh mẽ. Sự đối lập giữa “ngọn tầm vông”, “rơm con cúi”, “lưỡi dao phay” với “tàu sắt”, “tàu đồng”, “súng nổ” nhấn mạnh khí phách của người nghĩa sĩ. Điều đáng trân trọng nhất ở họ là sự đoàn kết, sức mạnh hiệp sĩ của những tinh thần dũng cảm, anh hùng.
Nguyễn Đình Chiểu đã mô tả một cách chân thực và nhạy cảm về người nông dân, nghĩa sĩ. Họ dũng cảm và cố chấp, nhưng cũng nóng nảy và mất kiên nhẫn. Có lẽ đó là nguyên nhân dẫn đến thất bại của họ ở Cần Giuộc.
Nguyễn Đình Chiểu đã viết về người nghĩa sĩ – nông dân với một niềm tự hào sâu sắc. Họ sống một cuộc sống anh hùng – chết một cái chết vinh quang. Những nghĩa sĩ vô danh hy sinh “ngay cả khi kiếm đang treo trên đầu”. Tư tưởng “chết vinh còn hơn sống nhục” được thể hiện rõ qua hình ảnh của họ:
Sống như thế nào theo quân tả đạo, vứt bỏ hương, đẩy ra bàn độc, càng nhìn lại càng thêm buồn; sống như thế nào ở lính mã tà, chia sẻ rượu tanh, nhai bánh mì, nghe càng thêm hổ.
Thà làm người đặt mạng đánh giặc, quay về theo tổ tiên cũng vinh dự; còn hơn phải chịu chữ đầu Tây, sống ở trong man di thật là khổ cực.
Đứng trước tượng đài vĩ đại ấy của dân tộc, chúng ta hiểu được bao nỗi niềm cảm thông, xót thương. “Mẹ già”, “vợ yếu” đau đớn, vô hạn nỗi lòng trong niềm thương xót.
Đau đớn quá! Mẹ già ngồi khóc trẻ, ngọn đèn khuya lảo đảo trong lều; xót thay! Vợ yếu chạy đi tìm chồng, bóng tối vật vã trước ngõ.
Bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu không chỉ thể hiện hình ảnh người nông dân anh hùng, kiên cường trong thơ mà còn là tiếng khóc thương cảm của dân tộc trước sự hy sinh cao cả của họ. Mặc dù cuộc chiến của họ thất bại nhưng đó là thất bại trong sự kiêu hãnh. Hình ảnh người anh hùng bất khuất trong văn tế trở nên kỳ vĩ, đẹp đẽ – “danh tiếng lan rộng đến sáu tỉnh được mọi người khen ngợi, tiếng tên lưu danh qua muôn đời ai cũng tôn kính”.
Nguyễn Đình Chiểu viết về những người nghĩa sĩ bằng tất cả tình cảm mến thương và sự kính phục chân thành. Cụ Đồ Chiểu mù mắt nhưng tấm lòng rạng ngời. Ông như nghe thấy tiếng lòng của những người nghĩa sĩ – nông dân để tạo ra khúc ca bi thương – cảm động. Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc phản ánh một “nỗi đau toàn bích”, Nguyễn Đình Chiểu thật xứng danh là “ánh sáng khác thường” trong văn học Việt Nam rộng lớn.
III - Liên hệ
Trên bầu trời có những ngôi sao sáng lấp lánh, nhưng phải nhìn chăm chú mới thấy, và càng nhìn thì càng thấy rõ. Văn thơ của Nguyễn Đình Chiểu cũng như vậy. Có người chỉ biết Nguyễn Đình Chiểu qua tác phẩm Lục Vân Tiên, và hiểu Lục Vân Tiên khá lệch lạc về nội dung và văn phong, ít ai biết đến thơ văn yêu nước của Nguyễn Đình Chiểu, những bài thơ hùng tráng về phong trào yêu nước chống lại bọn Pháp khi chúng xâm lược đến đất nước ta cách đây một trăm năm !
Nguyễn Đình Chiểu là một nhà thơ yêu nước, tác phẩm của ông là những bản ca bất hủ tôn vinh cuộc đấu tranh quyết liệt của dân tộc chống lại bọn Pháp ngay từ những ngày đầu khi chúng chạm chân vào đất nước chúng ta.
Nguyễn Đình Chiểu là một nhà nho, sinh ra ở vùng Đồng Nai hiền hòa, nhưng ông sống trong thời kỳ loạn lạc, khi vua nhà Nguyễn bán nước để bảo toàn ngai vàng, nhưng khắp nơi, nhân dân và sĩ phu dũng cảm đứng lên đánh giặc, cứu nước. Mặc cho mù mắt, hoạt động của nhà thơ yêu nước Nguyễn Đình Chiểu chủ yếu là thơ văn. Và những tác phẩm đó, ngoài giá trị văn chương, còn quý báu ở chỗ nó làm sáng bừng tâm hồn trong sáng và cao quý đặc biệt của tác giả, và ghi chép lịch sử của một thời kỳ đau khổ nhưng vĩ đại.
Bài hát của Nguyễn Đình Chiểu gợi nhớ đến bài Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi. Hai bài thơ, hai khung cảnh, hai giai đoạn lịch sử, nhưng một quê hương. Tác phẩm của Nguyễn Trãi ca ngợi những chiến công vang dội chưa từng có, ca tụng chiến thắng làm sáng tỏ hồn quê. Bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc hát về những anh hùng kiên cường, dù gặp khó khăn vẫn không khuất phục…