1. Bài mẫu số 1
2. Bài mẫu số 2
3. Bài mẫu số 3
Đề bài: Tính cách nhà nho chân chính trong Bài ca ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ
3 bài viết mẫu Tính cách của nhà nho chân chính trong Bài ca ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ
1. Tính cách của nhà nho chân chính trong Bài ca ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ, mẫu 1:
Khoảng thời kỳ cuối thế kỷ XVIII đến giữa thế kỷ XIX, Nguyễn Công Trứ, một nhà nho từ gia đình bình dân, trải qua cuộc sống khó khăn. Cuộc sống của ông nhiều biến động, 'leo lên thác, rơi vào ghềnh'. Ông là người có tài, hiểu biết rộng về quân sự và khoa học. Tuy nhiên, 'Hi Văn' của Hà Tĩnh có lúc giữ chức quan cao nhưng bị giáng chức, chốn công danh như trò đùa với Nguyễn Công Trứ. Vì thế ông mới 'ngất ngưởng', thể hiện sự khinh thường, làm nổi bật một nhà nho 'đặc biệt' trong tác phẩm 'Bài ca ngất ngưởng': Một tính cách nhà nho chân chính không tuân theo khuôn mẫu. Theo quan niệm cũ của xã hội phong kiến, nhà nho là người rộng lượng, hiểu biết. Một đấng nam nhi với đầy đủ công danh và đạo đức. Một con người hoàn hảo và vẹn toàn. Nguyễn Công Trứ cũng đạt được những điều đó vì đã có cơ hội học hỏi, thấm nhuần tư tưởng Nho học từ gia đình truyền thống.
'Vũ trụ nội mạc phi phận sự
Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng
Khi Thủ khoa, khi Tham tán, khi Tổng đốc đông
Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng
Lúc Bình Tây cờ đại tướng
Có khi về phủ doãn Thừa Thiên.'
'Bài ca ngất ngưởng' là một bài thơ theo thể hát nói, hay còn gọi là ca trù, tuân theo các qui tắc cụ thể. Nguyễn Công Trứ đã thay thế hai câu chữ Hán mở đầu bằng câu chữ Hán 'Vũ trụ nội mạc phi phận sự' và câu chữ Nôm 'Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng', tạo nên một nét độc đáo.
Bài viết Phân tích tính cách nhà nho chân chính trong Bài ca ngất ngưởng
Theo quan điểm của ông, không có gì thuộc quyền sở hữu riêng của một người trong vòng trời đất này. Ông, thông qua việc làm quan và đóng góp của mình, chấp nhận sự hy sinh cho đất nước và nhân dân. Tuy nhiên, ông sử dụng từ 'vào lồng' thay cho việc giữ chức quan, ông bị rơi vào khung cảnh của một khuôn mẫu. Nguyễn Công Trứ, một nhà nho chân chính, từng giữ nhiều chức vụ cao như Thủ khoa, Tham tán, Tổng đốc đông. Tư tưởng của nhà nho truyền thống sẽ buộc ông phải có thái độ khiêm tốn, nhưng ông đã phá vỡ rào cản vững chắc của luật lệ Nho học để thể hiện thái độ sống riêng biệt, một phong cách rất riêng của Nguyễn Công Trứ. 'Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng' - ông tự tin, mạnh mẽ để thể hiện tài năng quân sự và sự sáng tạo của mình. Ông không khiêm tốn mà có phần kiêu ngạo, tự hào khi thêm vào từ 'ngất ngưởng'. 'Ngất ngưởng' là rất cao, ông sử dụng từ này để làm nổi bật phong cách sống của mình. Một lối sống vượt trội, đặc biệt - thực sự 'ngất ngưởng'! Trong một xã hội phong kiến, ông có lẽ đã gây ra sự ghét bỏ vì sự tư duy tiến bộ nhưng lại bị giáng chức từ một người quan lớn xuống làm một nhân viên bình thường, thể hiện rõ sự trớ trêu của cuộc sống.
'Đô môn giải tổ chi niên
Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng
Kìa núi nọ phau phau mây trắng
Tay kiếm cung mà nên dạng từ bi
Gót tiên theo đủng đỉnh một đôi dì
Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng.'
Sau khi rời bỏ vị trí quan trọng năm 1848, Nguyễn Công Trứ quay trở lại quê hương. Đây là thời điểm ông sáng tác bài thơ này. Ông chia sẻ với mọi người rằng ông đã thoát khỏi cuộc sống làm quan, đạt được tự do và thoát khỏi 'cái lồng' của quan trường. Hành động của ông khi trở về quê như một người bình thường trên lưng con bò vàng với nhạc cụ, làm nổi bật sự độc lập của mình. Ông 'ngất ngưởng' trên lưng bò, thu hút sự chú ý và ngạc nhiên từ mọi người. Con bò cũng trở nên 'ngất ngưởng' nhờ sự xuất hiện của Nguyễn Công Trứ! Câu thơ tiếp theo mô tả một phong cảnh tuyệt vời, thần bí 'Kìa núi nọ phau phau mây trắng'. Nguyễn Công Trứ đã xây dựng nhà và sống dưới chân núi Đại Nại, một khu vực thần tiên. Dù dự kiến sống cuộc sống giản dị, thanh nhàn theo triết lý Nho, ông đã bất ngờ thực hiện những hành động không phù hợp với đạo đức và tri thức mà ông đã học. Hành động này khiến Bụt cũng phải nực cười, thấy ngạc nhiên trước sự ngông cuồng và 'ngất ngưởng' của Nguyễn Công Trứ.
'Khi ca, khi tửu, khi cắc, khi tùng
Không Phật, không tiên, không vướng tục.'
Hai câu thơ nhịp 2/2/2 và 2/3 tạo nên âm thanh đặc sắc cho bài thơ. Đồng thời, nhấn mạnh việc Nguyễn Công Trứ, mặc dù đến chùa, lại còn đưa theo hầu gái, thậm chí còn đàn và ca hát trong không gian linh thiêng, nhưng ông không thuộc về thế giới trần tục đó. Ông không bị lôi cuốn vào những thói hư tật xấu vì ông là một nhà nho chân chính. Quan trọng hơn, ông 'ngất ngưởng' hơn cả thế giới trần tục, vượt qua cả Phật, cả tiên. Nguyễn Công Trứ là độc nhất vô nhị, không giống ai.
'Được mất dương dương người thái thượng
Khen chê phơi phới ngọc đông phong.'
Nguyễn Công Trứ nhấn mạnh ý kiến cá nhân - 'được' và 'mất' là phổ biến trong cuộc sống. Ông không chấp nhận thất bại cũng như không mấy vui mừng với thành công. Ông hài lòng với mọi điều cuộc sống mang lại, bất kể là 'được' hay 'mất', vì ông tin rằng cả hai đều vô cùng quan trọng. Quan điểm 'được - mất' và 'khen - chê' của ông phản ánh một tư duy tích cực về cuộc sống.
'Chẳng Trái, Nhạc cũng vào phường Hàn, Phú
Trong triều ai ngất ngưởng được như ông.'
Hai câu cuối bài thơ làm nổi bật thêm phong cách độc đáo của Nguyễn Công Trứ. Ông xưng tự mình vào dòng họ danh nhân, những người tài năng. Bằng cách khẳng định và tự tin, ông chốt lại bài thơ bằng cảm nhận 'Trong triều ai ngất ngưởng được như ông'. Điều này làm nổi bật phong thái riêng biệt của nhà thơ.
Cao Bá Quát, trong 'Sa hành đoản ca' (Bài ca ngắn đi trên cát), cũng có cái nhìn sáng tạo về nhân cách nhà nho chân chính. Ông coi thường danh lợi và công danh, xem đó như là cái bẫy mà con người không nên rơi vào. Đi trên cát nhưng tưởng tượng đi trên con đường của danh vọng, ông nhấn mạnh sự nguy hiểm của việc theo đuổi công danh. Cả Cao Bá Quát và Nguyễn Công Trứ thể hiện tư duy độc đáo, đối diện với tư tưởng cũ và lạc hậu của Nho giáo.
Bản hòa nhạc 'Trái tim bừng sáng' của Nguyễn Công Trứ được sáng tác sau năm 1848 khi ông nghỉ hưu. Tác phẩm là tổng kết tinh tế về cuộc đời của Nguyễn Công Trứ, kết hợp trí tuệ, tài năng, tính cách và triết lý. Khúc nhạc tuyệt vời này, được viết bằng thể loại Hát nói, là biểu tượng của tài năng và phong cách đặc sắc của 'Ông Hi Văn'.
'Vũ trụ bên trong, vinh quang tuyệt vời
Ông Hi Văn, người tài năng, đã chọn lối vào cuộc sống
Khi là Thủ khoa, khi là Tham tán, khi là Tổng đốc Đông
Bước đi qua những thách thức, tay nghệ sĩ vẫn ngất ngưởng
...
Trong triều đại, không ai vượt qua ông!'
Khác biệt so với những bài hát nói khác, Nguyễn Công Trứ không sử dụng hai câu chữ Hán để mở đầu, thay vào đó là một câu Hán: 'Vũ trụ bên trong, vinh quang tuyệt vời' và một câu Việt: 'Ông Hi Văn, người tài năng, đã chọn lối vào cuộc sống'. Câu chữ Hán có ý nghĩa rằng trong vũ trụ này, mọi thứ đều là phận sự của chúng ta. Đây là quan điểm thiêng liêng của người Nho mà Nguyễn Công Trứ đã nhận thức sâu sắc và thể hiện nhất quán từ khi còn trẻ đến già. Bởi vì ông nhìn nhận quan điểm chính thống đó mà 'Ông Hi Văn, người tài năng, đã chọn lối vào cuộc sống'. Câu thơ này đẹp và tuyệt vời! Nội lực phải mạnh mẽ để tạo ra một tinh thần tự hào như thế. Có vẻ như Nguyễn Công Trứ đang bắt chước một 'ông Hi Văn' nào đó, nhưng không ngờ rằng chính ông Hi Văn chính là Nguyễn Công Trứ! Một con người suốt đời dày công với danh vọng nhưng lại coi đó như một cái 'lồng'. Tại sao lại có thái độ khinh bạc như vậy? Rất dễ hiểu, Nguyễn Công Trứ là người tài năng đã sử dụng toàn bộ tài năng và trí tuệ của mình để phục vụ xã hội, cứu nước, cứu dân. Nhưng trong xã hội phong kiến mà ông phục vụ lại quá nhỏ bé, thậm chí là thảm hại, ông Hi Văn luôn cảm thấy bị ràng buộc, mất tự do, giống như một con chim trong chiếc 'lồng'!
Nhận định về tính cách của nhà Nho chính trực được thể hiện rõ trong Bản hòa nhạc 'Trái tim bừng sáng'
Do đó, những hành động gây sốc và những chiến thuật táo bạo của vị tướng lĩnh để trả 'nợ đen' có thể so sánh với sự bay nhảy của một chú chim trong chiếc lồng.
'Làm Thủ khoa, làm Tham tán, làm Tổng đốc Đông
Với bản lĩnh đã biến những kế sách thành chiến công đỉnh cao,
Trong thời kỳ bình thường hay khi dẫn đội quân mạnh mẽ về chiến trận Thừa Thiên.'
Kể chuyện như vậy cũng đã hùng biện! Tài năng văn võ đỉnh đỉnh ở đây. Điều này chỉ là một phần nhỏ, vì tác giả chưa kể đến những chiến tích khác mà ông đã sáng tạo và đóng góp cho dân tộc và đất nước. Nhưng rồi Nguyễn Công Trứ có gì khác biệt so với các nhà quan trường thời đó? Ở đây, đó chính là 'ông Hi Văn' chính ông!
'Với tinh thần chiến đấu đã biến những kế sách thành chiến công đỉnh cao'
'Ngất ngưởng' ngay trong những hành động chính trị! 'Ngất ngưởng' tại đỉnh cao của danh tiếng! Điều hiếm thấy. Đó không chỉ là vẻ bề ngoài, mà 'ngất ngưởng' đã trở thành bản chất của Nguyễn Công Trứ. Là thái độ sống, cũng là cốt cách, cá tính của 'ông Hi Văn'. Trong triều đại suy tàn, giữa đám quan lại tham lam, mua bán quyền lực, bên cạnh những 'tiến sĩ giấy' đầy ồn ào, Nguyễn Công Trứ 'ngất ngưởng' cao quý là điều không thể tránh khỏi. Đánh giá về tính cách, thái độ 'ngất ngưởng' là 'chiến công' lớn nhất của Nguyễn Công Trứ. Tâm hồn 'ngất ngưởng' xuyên suốt cuộc đời. Nguyễn Công Trứ, nếu phải mô tả, thì 'ngất ngưởng' giữa triều đại, 'ngất ngưởng' trên đỉnh cao danh vọng là tinh thần đáng kính nhất của 'ông Hi Văn'.
Thái độ ngông đã trở thành tâm hồn của Nguyễn Công Trứ. Trong bối cảnh tiểu triều đang 'ngất ngưởng', quan chức cũng đua nhau 'ngất ngưởng':
'Đô môn giải tổ chi niên,
Đạc ngựa bò vàng đeo lụa lạc ngất ngưởng
Núi kia phủ mây trắng bồng bềnh
Tay kiếm cung mà hình thành hình tượng từ bi.
Gót tiên đặt lên đỉnh đội đẹp nhất,
Bụt cười kỳ quái ông ngất ngưởng...'
Năm cởi áo mũ, khi nghỉ hưu, không còn cưỡi ngựa mà chọn bò vàng và đeo lục lạc, 'ông Hi Văn' thật là 'ngất ngưởng'. Không chỉ thế, ông còn thắt một sợi dây cau sau đuôi bò, tuyên bố rằng đó là để che đi miệng của thế gian. Bất ngờ, dãy núi quen thuộc của quê hương hiện ra: 'Núi kia phủ mây trắng'. Núi Đại Nại, biểu tượng của quê hương nơi các nhà thơ đều mê đắm trong một không gian huyền bí.
Anh hùng vượt trời đã trở về nơi hòa bình cõi Phật. 'Tay kiếm cung' ấy không chỉ đánh đổ kinh đô mà còn hình thành tâm hồn từ bi!
'Tay kiếm cung mà hình thành tâm hồn từ bi
Gót tiên dẫn dắt trên đỉnh một đôi dì'
Vào chùa mà vẫn giữ theo cùng ả đào, chỉ có Nguyễn Công Trứ, hay nói chính xác hơn là chỉ có ông là chân thành nhất. Sự chân thành đã làm cho câu thơ trở nên sống động, có lẽ còn ở chỗ tài hoa nữa. Từ 'đủng đỉnh' quá tuyệt vời, đó là nhịp bước của ả đào vào chùa, nhịp bước 'đủng đỉnh' của tiếng chuông mõ tịch, chứ không phải nhịp 'tùng', 'cắc' dưới 'xóm'. Nhưng không phải chỉ vì 'đủng đỉnh' trước sân chùa mà ả đào trở thành ni cô. Tương tự, Nguyễn Công Trứ, dù có từ bi bước vào cửa chùa, nhưng không thể diệt trừng được lòng ham muốn.
'Bụt cũng thấy buồn cười khi ông ngất ngưởng'
Trong một xã hội đầy áp đặt, cá nhân bị đàn áp, cá tính bị làm tròn, Nguyễn Công Trứ vẫn tỏa sáng với cá nhân tích cực và cá tính tự do. Với tâm hồn nhân văn 'ngất ngưởng', nhà thơ Nguyễn Công Trứ đã dẫn đầu thời đại hàng thế kỷ!
Nếu theo dõi bài hát từ đầu, chúng ta có thể nghe ba giai điệu 'ngất ngưởng' khác nhau. 'Với bản lĩnh đã biến kế sách thành chiến công đỉnh cao' là 'ông Hi Văn' 'ngất ngưởng' trong 'lồng'. Đây là giai điệu đặc biệt, thể hiện sức mạnh và quyết đoán của Nguyễn Công Trứ. Nói một cách khác, đây là chiến thắng lấp lánh của việc tự bản thân (khi đạt đến đỉnh cao danh tiếng, con người không còn là chính mình nữa). 'Đạc ngựa bò vàng đeo lụa lạc ngất ngưởng' là giai điệu của Nguyễn Công Trứ khi nghỉ hưu 'ngất ngưởng'. 'Bụt cũng thấy buồn cười khi ông ngất ngưởng' là giai điệu tự hào của Nguyễn Công Trứ muốn 'ngất ngưởng' thoát khỏi vụng trộm.
Và đây là giai điệu cuối cùng, tổng kết cuộc đời của một nhà nho trung nghĩa mà không làm mất đi chính bản thân:
'Mất dương dương vẫn tái thượng,
Khen chê phơi phới ngọn đông phong.
Khi ca, khi tửu, khi cắc, khi tùng.
Không Phật, không tiên, không vướng tục.
Chẳng Trái, Nhạc cũng vào phường Hàn, Phú.
Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung.
Trong triều ai ngất ngưởng như ông!'
Đối với Nguyễn Công Trứ, 'mất đi ánh dương, con người tái sinh'. Tác giả sử dụng hình ảnh 'Ông thất mã tái xuất'. May mắn không phải lúc nào cũng là niềm vui, và sự mất mát cũng không phải là điều đau lòng. Trong cuộc sống hối hả, việc 'mất mát' một chút có thể khiến mọi người trở nên tàn sát, nhưng Nguyễn Công Trứ lại duy trì thái độ vững vàng đối diện với sự mất mát, chứng tỏ bản lĩnh cao cường của mình. Ngay cả khi bị 'khen chê', ông vẫn giữ thái độ lạc quan, nhưng đôi khi, việc bị 'phơi phới ngọn đông phong' khiến người ta cảm thấy vui vẻ như làn gió xuân. Điều này là do ông không tận hưởng theo chuẩn mực chính thống mà người khác đặt ra, mà là theo chuẩn mực riêng của mình. Nguyễn Công Trứ vẫn giữ vững tinh thần lãnh đạo dù có mất chức vị, vì ông vẫn là Nguyễn Công Trứ! Những tiếng nói này khiến mọi người trầm trồ và yêu đời hơn bao giờ hết.
'Ca hát, rượu bia, nhảy múa, đốt hương.
Không tôn giáo, không thần linh, không bị ràng buộc bởi lề thói'
Giác quan của nhà thơ mở ra với cuộc sống tự do, khám phá vẻ đẹp và trải nghiệm niềm vui. Thơ, rượu, ca trù, hát ả đào là niềm đam mê của Nguyễn Công Trứ. Câu thơ nhịp 2/2 rộn ràng (ca hát/ rượu bia/ nhảy múa/ đốt hương) khiến khúc ca trở nên sống động. Tác giả cũng không quên đánh giá công lao của 'ông Hi Văn' đối với triều đại mà ông phục vụ:
'Trái đất này, âm nhạc vang lên ở phố Hàn, Phú
Nghĩa vua tôi để lại hậu duệ truyền bá đạo đức'
Nguyễn Công Trứ được xem là một trong những danh tướng, công thần xuất sắc nhất trong lịch sử Trung Quốc, tương đương với Trái Tuân, Nhạc Phi, Hàn Kì, Phú Bật của đời Hán và đời Tống. Ông tự hào với danh hiệu này, vì lý tưởng anh hùng của ông là sự kết hợp hoàn hảo giữa tinh thần trung quân và lòng yêu nước theo đạo Nho, và ông đã trung thành với lẽ đạo của triều đình.
Tìm kiếm một bậc danh sĩ văn võ toàn diện như Nguyễn Công Trứ trong mọi thời đại cũng không dễ dàng, tuy nhiên, không phải là không có. Nhưng với tình trạng 'ngất ngưởng' đến mức ông thể hiện thì thật khó tìm thấy.
'Trong triều vị nào có ai ngất ngưởng như ông?'
Đoạn nhạc cuối cùng của 'Bản hùng ca ngất ngưởng' đưa người nghe đến một không gian âm nhạc đặc biệt. Tác giả chọn giai điệu 'ngất ngưởng' để làm điểm kết thúc hoàn hảo cho bản hùng ca. Sự 'ngất ngưởng' không chỉ tồn tại trong triều đình, mà còn trên đỉnh núi cao của danh vọng, là biểu hiện của nhân cách và phẩm chất uy nghi của Nguyễn Công Trứ.
Nếu phải chọn một tác phẩm đại diện cho sự sáng tạo toàn bộ của Nguyễn Công Trứ, thì đó chính là 'Bản hùng ca ngất ngưởng'. Tính cách, tài năng, sức mạnh và tâm hồn của Nguyễn Công Trứ hiện hữu mạnh mẽ trong tác phẩm tuyệt vời này. Lời nói đã trở thành những dòng thơ, hấp dẫn, sâu sắc với triết lý và tình cảm, cảm xúc trào phúng. Có một Nguyễn Công Trứ ẩn sau 'lồng' cười và một 'ông Hi Văn' nằm trong 'lồng', với bốn giai điệu 'ngất ngưởng' ghi chép cuộc đời đa dạng của một danh sĩ tài năng, trung nghĩa mà không bao giờ lạc lõng. Trong một xã hội đánh giá thấp cá nhân, và cá nhân thường bị làm mất đi, thì thái độ 'ngất ngưởng' của Nguyễn Công Trứ không chỉ là biểu tượng của ông, mà còn là giá trị nhân văn vượt lên trên thời đại.
3. Nhân cách chân chính trong Bản hùng ca ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ, mẫu 3:
Cuộc sống của Nguyễn Công Trứ qua hai thế kỷ XVIII và XIX, với đặc điểm lối sống và sáng tạo trong thơ ca, là sự kế thừa đáng giá của 'Tôi' hiện diện trong văn hóa được truyền bá từ Phạm Thái, Hồ Xuân Hương... Những đặc điểm độc đáo này đã làm nên vẻ đẹp riêng biệt cho nhiều tác phẩm của nhà thơ, đặc biệt là 'Bản hùng ca ngất ngưởng'.
Bài thơ mang một tựa đề độc đáo 'Bản hùng ca ngất ngưởng'. 'Ngất ngưởng' tại đây không chỉ là sự không ổn định, mà còn là sự dao động, chập chững như sự ngã. Tên của bài thơ phản ánh cuộc đời rộng lớn, nhiều thăng trầm và biến động của tác giả. Một cuộc sống mào hiểm, với những biến động đặc biệt. Tuy nhiên, những sự biến động này chỉ làm nổi bật nhân cách lớn lao của Nhà Nho chân chính - Nguyễn Công Trứ. Nhà thơ sống 'ngất ngưởng', sống độc lập, tự do và không quan tâm đến những ý kiến của thế gian.
Sau năm 1848, Nguyễn Công Trứ viết bài thơ, thời điểm ông đã về hưu ở quê nhà Hà Tĩnh. Cuộc sống tự do không bị ràng buộc bởi những luật lệ chính trị, tác giả trở nên càng phóng khoáng. Ông thể hiện rõ cá tính mạnh mẽ của mình khi bước sang giai đoạn mới, không quan tâm đến những biến cố của thế gian.
Hồi nhìn quá khứ, nhà thơ tự hào về cuộc đời mình, không sống những ngày tháng vô nghĩa. Ông đã đóng góp những điều mà một người hiền sĩ có thể làm, gánh vác trách nhiệm đối với xã hội: 'Vũ trụ nội mạc phi phận sự' - Mọi sự việc trong thế giới đều là phận sự của chúng ta. Những học trò của Khổng Tử luôn nhớ đến trách nhiệm của họ: tu thân, chăm sóc gia đình, đóng góp cho đất nước, hòa bình thiên hạ. Câu thơ của Nguyễn Công Trứ thể hiện ý thức sâu sắc về trách nhiệm cá nhân và tầng lớp đối với thời đại.
Hướng dẫn Phân tích nhân cách chân chính trong Bản hùng ca ngất ngưởng
Tự đặt mình vào vị trí của người luôn chịu trách nhiệm trong mọi lĩnh vực, nhà thơ tự giới thiệu bản thân: 'Ông Hi Văn tài bộ đã rời khỏi đấu trường' khi về hưu. Con chim với cánh vươn mở chín dặm trời đã gập cánh 'vào lồng', thời kỳ vinh quang đã trôi qua nhưng tầm ảnh hưởng của ông vẫn còn vang xa, tạo nên một đại diện mạnh mẽ.
'Khi đăng quang, khi dẫn đầu, khi nắm quyền Đông
Mọi chiến lược trở thành tay 'ngất ngưởng'
Lúc Bình tây, vị đại tướng
Có thể trở về làm lãnh đạo Thừa Thiên'
Trong lịch sử văn hóa Việt Nam, cùng với một số tác giả nổi tiếng như Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Công Trứ nổi bật với cái tôi cá tính, tự xưng tên riêng trong tác phẩm - ông viết về 'ông Hi Văn'. Dù Nho giáo dạy rằng học trò phải tỏ ra cá nhân giữa trời đất, ông đã sử dụng cái 'tôi' của mình để biểu hiện yêu cầu này một cách chuẩn mực. Điều này thể hiện sự ý thức sâu sắc về cái 'tôi' giữa những yếu tố chung chung. Không chỉ thế, ông còn hiểu rõ về tài năng của mình. Điệp từ 'Khi...khi...' và cách thức nhấn nhịp ngắn, rõ ràng của câu thơ làm nổi bật tài năng đặc sắc của nhà thơ. Thời đại đòi hỏi con người phải tìm kiếm bản thân, nhưng xã hội truyền thống không chấp nhận sự nhận thức và khẳng định về cái tôi cá nhân. Trong thời đại đó, thơ Nguyễn Công Trứ là lời ca đẹp khẳng định tính cá nhân, là biểu hiện tinh tế của tầm nhìn nhân văn trong ý thơ của tác giả.
Nhận thức về tài năng, 'người ngất ngưởng' cũng hiểu về đức hạnh và phẩm chất đẹp của mình. Tuy nhiên, vẻ thanh cao trong đạo đức của ông Hi Văn không được giấu diếm. Khác biệt với Nguyên Trãi, Nguyễn Khuyến,... đức hạnh của Nguyễn Công Trứ kết hợp với tính cách 'ngông' riêng biệt, nổi bật. Ông không ngần ngại thể hiện bản thân mình: 'Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng'. Thiên hạ cưỡi ngựa, nhưng ông Hi Văn lại cưỡi bò! Đồng thời, ông còn đeo mo cau sau đuôi bò như một cách 'che đậy miệng của thế gian'. Lối sống độc đáo như vậy giúp ông tách mình khỏi những lo lắng, sự kích động và ham muốn danh vọng của thế gian. Cá tính của nhà thơ không chỉ là thái độ khinh bỉ những kẻ giả tạo, tầm thường, mà còn là sự tự hào về sự độc đáo của bản thân. Ta đã khen ngợi tinh thần kiên cường như mai như tùng của Nguyễn Trãi, Nguyễn Khuyến,... nhưng chắc chắn không thể quên nét cao quý nơi Nguyễn Công Trứ (dù ông ta cao ngạo 'ngất ngưởng' trên lưng bò!).
Không chỉ kiêu ngạo trên đỉnh thế gian, ông Hi Văn còn biết hạ xuống với thế nhân để thể hiện lòng nhân ái tại một đẳng cấp vô cùng thanh cao:
'Kìa núi kia phủ mây trắng nhẹ
Gót tiên theo bước nhẹ nhàng, ân tình'
Chỉ cần nhà thơ ghé chùa, cô đầu tựa như thói quen. Nguyễn Công Trứ hiểu rằng hành động đó khiến mọi người cười: 'Bụt cũng bật cười ông ngất ngưởng'. Cười từ bụt, từ người xung quanh, và cả chính ông cũng tự cười mình.
Ai cũng trải qua những thăng trầm trong cuộc đời, nhưng người ta đã trải nghiệm đủ thị trường 'lên voi xuống chó' thì không còn sợ gì nữa! Ông đối diện với những thách thức của cuộc sống một cách sáng tạo, chấp nhận được những mất mát và nhận thức được sự khen chê của thế gian.
'Mất đi vẻ trai trẻ người lại tăng giá trị
Khen chê phô diễn như đỉnh núi hiên ngang'
Dưới đây là 3 bài mẫu viết cảm nhận về nhân cách chân chính của nhà nho trong Bài ca ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ đầy sáng tạo và đặc sắc. Ngoài ra, để hiểu thêm về phong cách viết, sự tự do trong tâm hồn của các nhà văn trong văn học đương đại Việt Nam, bạn có thể tham khảo các bài mẫu phân tích Phân tích tâm trạng của nhân vật trữ tình trong bài thơ Tự tình 2 của Hồ Xuân Hương, Phân tích bức tranh mùa thu qua bài Câu cá mùa thu của Nguyễn Khuyến, Phân tích bài thơ Thương vợ, phân tích bài văn tế nghĩa sĩ cần Giuộc,...