Bối cảnh sáng tạo của một tác phẩm vô cùng quan trọng, giúp học sinh hiểu rõ nội dung, giá trị tư tưởng của một tác phẩm văn học. Đây cũng là tài liệu hữu ích giúp học sinh dễ dàng trả lời các câu hỏi đọc hiểu trong đề thi vào lớp 10 năm 2024 - 2025.
1. Chuyện của một cô gái ở Nam Xương
“Chuyện của một cô gái ở Nam Xương” là một phần của tác phẩm Truyền kỳ mạn lục (ghi chép tản mạn về những điều kỳ lạ được lưu truyền), viết vào thế kỷ XVI. Câu chuyện này chủ yếu lấy cảm hứng từ truyện dân gian cổ 'Vợ của Trương', là câu chuyện thứ 16 trong 20 câu chuyện của tác phẩm Truyền kỳ mạn lục.
2. Những câu chuyện cổ trong hoàng cung của chúa Trịnh
Đoạn trích này xuất hiện trong tác phẩm Vũ trung tùy bút, viết vào đầu thế kỷ XIX, là một tác phẩm văn xuôi sống động, hấp dẫn mô tả sự thật u ám của lịch sử Việt Nam, đồng thời cung cấp tài liệu quý giá về lịch sử, địa lý, và xã hội
3. Hương xưa
Cố hương là một trong những truyện ngắn tiêu biểu nhất của nhà văn Lỗ Tấn, được đăng trong tập 'Gào thét' (1923).
4. Sử sách về Hoàng Lê
Hoàng Lê đoàn tụ sử là một tác phẩm bằng chữ Hán ghi chép về quá trình thống nhất của triều đại nhà Lê khi Tây Sơn lật đổ Trịnh, trả lại Bắc Hà cho vua Lê. Tác phẩm không chỉ nói về sự thống nhất của triều đại nhà Lê mà còn tái hiện một giai đoạn lịch sử đầy biến động của xã hội phong kiến Việt Nam vào 30 năm cuối thế kỷ 18 và đầu thế kỷ 19. Tiểu thuyết này bao gồm 17 phần.
5. Câu chuyện của Kiều
- Truyện Kiều (Đoạn trường tân thanh) được Nguyễn Du sáng tác vào đầu thế kỷ 19 (khoảng 1805-1809)
- Nguyễn Du sáng tác Truyện Kiều dựa trên cốt truyện Kim Vân Kiều của Trung Quốc, nhưng phần sáng tạo của ông là độc đáo, tạo nên thành công và sức hấp dẫn riêng cho tác phẩm
- Thể loại: Truyện thơ Nôm, gồm 3254 câu thơ lục bát
6. Đồng bộ
Bài thơ Đồng Bộ được sáng tác bởi nhà thơ Chính Hữu vào năm 1948, sau khi tác giả đã cùng đồng đội tham gia chiến đấu trong chiến dịch Việt Bắc thu đông (1947), đánh bại cuộc tiến công lớn của quân Pháp vào vùng Việt Bắc. Tác phẩm được in trong tập thơ “Đầu Súng Trăng Treo”.
Năm đó, Chính Hữu mới tròn 20 tuổi; anh ta đang là chính trị viên đại đội thuộc Trung đoàn Thủ Đô. Đại đội của anh ta được biệt phái đi truy kích địch trên vùng Việt Bắc. Sau chiến dịch này, anh ta bị ốm, đơn vị hành quân, nhưng có một người đồng đội ở lại chăm sóc anh ta. Chính nhờ vào sự tận tình đó và tình đồng đội mà sau khi ốm, anh ta viết bài “Đồng Bộ”
Bài thơ ca ngợi tinh thần đồng đội, sự đoàn kết và tinh thần hi sinh cao cả của các anh bộ đội thời kháng chiến chống Pháp. Tình đồng đội là nguồn sức mạnh giúp họ vượt qua mọi khó khăn, dũng cảm chiến đấu và hoàn thành nhiệm vụ.
7. Bài thơ về tiểu đội xe không kính
Bài thơ về tiểu đội xe không kính là tác phẩm của nhà thơ Phạm Tiến Duật viết vào năm 1969, trên con đường chiến lược Trường Sơn. Bài thơ này đã giành giải Nhất trong cuộc thi thơ của báo Văn Nghệ và được đăng trong tập thơ “Vầng trăng – Quầng lửa” (1970) của tác giả.
Bài thơ được sáng tác trong thời kỳ cuộc kháng chiến chống Mỹ gay go, ác liệt. Miền Bắc giải phóng miền Nam vẫn tiếp tục chiến đấu chống Mỹ. Vượt qua mưa bom bão đạn, đoàn xe vận tải vẫn ngày đêm bất chấp gian khổ và hy sinh để vận chuyển tiếp viện miền Nam. Phạm Tiến Duật đã ghi lại những hình ảnh đặc biệt của Trường Sơn trong thời kỳ đó. Ông đã lấy cảm hứng từ những chiếc xe không kính để tạo nên bài thơ ấn tượng về những người lái xe chiến sĩ.
Bài thơ ca ngợi sự dũng cảm và nghị lực của những người chiến sĩ lái xe Trường Sơn trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ. Họ vượt qua mọi khó khăn, quyết tâm chiến đấu và hy sinh vì mục tiêu cao cả là giải phóng miền Nam và thống nhất Tổ quốc.
8. Đoàn thuyền đánh cá
Bài thơ Đoàn thuyền đánh cá là tác phẩm của nhà thơ Huy Cận, viết vào năm 1958, trong chuyến đi thực tế tại vùng mỏ Quảng Ninh. Từ chuyến đi này, tinh thần sáng tác của Huy Cận đã phát triển mạnh mẽ, với những cảm hứng về thiên nhiên, lao động và niềm vui của cuộc sống mới. Bài thơ được đăng trong tập thơ “Trời mỗi ngày lại sáng” (1958).
Đáp ứng cuộc vận động viết về cuộc sống mới hòa bình, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc của chính phủ, năm 1958, Huy Cận hân hoan đến với vùng mỏ Quảng Ninh. Niềm vui và tình yêu trước cuộc sống mới đã trở thành nguồn cảm hứng lớn cho thơ ca của ông. Từ chuyến đi đó, tinh thần sáng tạo của ông đã phát triển mạnh mẽ, với những cảm hứng về thiên nhiên, lao động và niềm vui trước cuộc sống mới.
Bài thơ miêu tả đoàn thuyền đánh cá trong một đêm trăng trên vịnh Hạ Long, ca ngợi vẻ đẹp thiên nhiên tươi đẹp của đất nước đang trên đà thay đổi, cùng với hình ảnh những con người mới, nhiệt huyết lao động, tư thế kiêng nể và tràn đầy niềm tin lạc quan, đang nỗ lực để làm chủ thiên nhiên và cuộc sống của mình.
9. Bếp lửa
Bài thơ Bếp lửa được sáng tác vào năm 1963, khi tác giả là sinh viên học ngành Luật ở nước ngoài. Bài thơ này được đăng trong tập thơ “Hương cây – Bếp lửa” (1968), là tập thơ đầu tiên của Bằng Việt và Lưu Quang Vũ.
Bếp lửa là ký ức đầy xúc động của nhà thơ về hình ảnh bếp lửa thân thuộc và người bà hiền hậu. Những năm đầu tiên học luật tại Khiep, nước Nga, xa quê hương, nhà thơ nhớ về quê nhà mình. Mùa đông ở quê nhà với trời lạnh se se, sương khói bay mờ mờ, gợi nhớ đến những ký ức của nhà thơ về bà nội thường dậy sớm để nấu nồi xôi, luộc củ khoai, củ sắn cho cả nhà. Những hình ảnh đó đã truyền cảm hứng cho nhà thơ viết bài thơ này.
Qua hình ảnh Bếp lửa – ngọn lửa, tác giả thể hiện tình cảm nhớ, kính trọng và biết ơn bà của mình khi đi xa, đồng thời diễn đạt tình yêu thương sâu sắc đối với gia đình, quê hương, và đất nước.
10. Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ
Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ là tác phẩm của Nguyễn Khoa Điềm viết vào năm 1971, khi ông đang phục vụ tại chiến khu miền Tây Thừa Thiên. Bài thơ sau này được xuất bản trong tập “Đất và khát vọng” (1984).
Đầu năm 1971, cuộc kháng chiến chống Mỹ của dân tộc chúng ta đã trải qua giai đoạn khốc liệt nhất trong lịch sử. Kẻ thù liên tục tấn công và phá hủy miền Bắc, gây ra nhiều khó khăn và thiếu thốn cho bộ đội và nhân dân trên các chiến khu. Trong những vùng núi rừng, dân và quân ta không chỉ làm ruộng, bám rừng mà còn tăng cường sản xuất, sẵn sàng chiến đấu để bảo vệ căn cứ. Được lấy cảm hứng từ cuộc sống lao động và chiến đấu của nhân dân miền núi, Nguyễn Khoa Điềm đã viết bài thơ này để động viên tinh thần chiến đấu của toàn dân.
Bài thơ ca ngợi tấm lòng nhân ái, tình yêu thương của mẹ Tà ôi, tình thương con gắn liền với tình yêu quê hương, lòng yêu nước, và lòng kính trọng bộ đội của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
11. Dải trăng
Bài thơ Dải trăng do Nguyễn Duy sáng tác vào năm 1978, khi ông đang đại diện cho Báo Văn nghệ tại thành phố Hồ Chí Minh. Bài thơ được in trong tập thơ cùng tên của tác giả.
Nguyễn Duy là một người lính. Sau khi đất nước được giải phóng, ông định cư và sinh sống tại Thành phố Hồ Chí Minh. Bài thơ này thể hiện những trải nghiệm thực tế của ông, khi sống trong một đô thị hiện đại, nơi mà những người từ chiến trận trở về phải vượt qua quá khứ đau thương và giữ gìn những kỷ niệm và tình cảm từ quá khứ.
Bài thơ tôn vinh vẻ đẹp của dải trăng trong kí ức tuổi thơ và trong trái tim của người lính, đồng thời nhấn mạnh tầm quan trọng của lòng trung thành và tinh thần đạo đức.
12. Nước làng
Truyện ngắn Quê Hương được Kim Lân sáng tác trong giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp và được đăng lần đầu trên tạp chí Văn nghệ vào năm 1948, tại chiến khu Việt Bắc.
Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, quân Pháp tiếp tục xâm lược và áp đặt thực dân lên nước ta. Năm 1946, chính phủ cách mạng ra lời kêu gọi toàn dân kháng chiến. Trong thời kỳ này, người dân tuân theo chính sách của chính phủ: khuyến khích nhân dân tạm rời bỏ vùng bị địch chiếm để tham gia kháng chiến. Ban đầu, nhiều người dân còn băn khoăn về chính sách của Ủy ban kháng chiến và con đường cách mạng của lãnh tụ Hồ Chí Minh. Để miêu tả những thay đổi trong tình cảm của người nông dân trong giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp và động viên tinh thần cách mạng, Kim Lân đã viết truyện ngắn Quê Hương.
Truyện kể về tình yêu quê hương của ông Hai Thu khi phải rời xa làng để tham gia kháng chiến, qua đó tôn vinh tình yêu đất nước và tình yêu cách mạng của người nông dân Việt Nam trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp.
13. Im lặng Sapa
Truyện ngắn Im lặng Sa Pa được Nguyễn Thành Long sáng tác trong chuyến công tác tại Lào Cai giữa mùa hè năm 1970 và được in trong tập “Giữa những cảnh đẹp tự nhiên” (năm 1972).
Hưởng ứng cuộc vận động viết về cuộc sống mới hòa bình, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, năm 1970, Nguyễn Thành Long tự mình tìm kiếm chủ đề ở vùng Tây Bắc xa xôi. Ông tập trung vào việc quan sát và khám phá những vẻ đẹp bình dị, ẩn sâu trong cuộc sống ở những nơi hẻo lánh của đất nước. Cuối cùng, ông đã phát hiện ra hình ảnh của người thanh niên làm việc trên đỉnh cao Yên Sơn – Sapa cao 2600 mét. Đó chính là nguồn cảm hứng cho ông hoàn thành tác phẩm Lặng lẽ Sa Pa.
Thông qua cuộc gặp gỡ giữa bốn nhân vật, một họa sĩ già, một kỹ sư trẻ, một lái xe và một thanh niên làm công tác khí tượng kiêm vật lý địa cầu trên đỉnh Yên Sơn giữa núi rừng Lào Cai, tác giả tôn vinh những con người lao động bình thường đang âm thầm cống hiến công sức cho công cuộc xây dựng XHCN và thống nhất đất nước.
14. Chiếc lược ngà
Truyện ngắn Chiếc lược ngà được Nguyễn Quang Sáng viết năm 1966, khi tác giả hoạt động ở chiến trường Nam Bộ và được đưa vào tập truyện cùng tên của ông.
Năm 1966, Nguyễn Quang Sáng từ miền Bắc trở về miền Nam làm việc. Ông chủ yếu hoạt động ở Vùng Đồng Tháp Mười. Một lần, ông đi ghe vào sâu trong rừng và ở lại ở một nhà sàn treo trên ngọn cây. Ở đó, ông gặp một đoàn giao liên toàn là nữ. Ông rất ấn tượng với câu chuyện của một cô gái giao liên có chiếc lược ngà trắng. Được truyền cảm hứng từ câu chuyện đó, khi trở về, nhà văn viết ra tác phẩm này trong một ngày, một đêm.
Truyện kể về tình cảm cha con sâu đậm của ông Sáu và bé Thu, qua đó tác giả tôn vinh tình cha con sâu đậm, tình đồng đội chặt chẽ trong hoàn cảnh khó khăn của chiến tranh, đồng thời tôn vinh truyền thống cách mạng yêu nước của người nông dân Nam Bộ.
15. Con cò
- Bài thơ “Con cò” được sáng tác năm 1962, in trong tập “Hoa ngày thường – Chim báo bão” (1967)
- Đây là một trong những bài thơ tuyệt vời và độc đáo của Chế Lan Viên ca ngợi tình mẹ và ý nghĩa của lời ru đối với cuộc sống của con người.
16. Mùa xuân nho nhỏ
Bài thơ 'Mùa Xuân Nho Nhỏ' được sáng tác vào tháng 11 năm 1980, khi tác giả nằm trên giường bệnh (không lâu sau ông qua đời), đất nước chúng ta mới thống nhất lại đang phải đối mặt với nhiều khó khăn và thử thách. Nhưng tác giả vẫn có nhiều cảm nhận về mùa xuân thiên nhiên, đất nước, vẫn có ước nguyện cống hiến trân thành, thiết tha. Từ đó thể hiện tư tưởng chủ đề của tác phẩm. Tiếng lòng thiết tha yêu cuộc sống, ước nguyện được cống hiến cho cuộc đời của tác giả.
17. Viếng lăng Bác
Bài thơ được viết vào tháng 4 năm 1976, một năm sau ngày đất nước thống nhất. Đó cũng là khi lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh vừa khánh thành.
Viễn Phương là một người con của miền Nam, cũng như đồng bào và chiến sĩ miền Nam, nhà thơ mong mỏi được một lần ra thăm Bác. Năm 1976, Viễn Phương vinh dự có mặt trong đoàn đại biểu các chiến sĩ, đồng bào miền Nam được ra viếng Bác. Xúc động tận đáy lòng, thay mặt đồng bào miền Nam, nhà thơ viết bài thơ Viếng lăng Bác.
18. Sang thu
Bài thơ của Hữu Thỉnh được sáng tác vào cuối năm 1977 (sau khi đất nước được giải phóng 2 năm) trong một cuộc thi sáng tác thơ ca tại trại hè. Bài thơ đầu tiên được đăng trên báo Văn nghệ, sau đó được in trong tập thơ Từ chiến hào đến thành phố (xuất bản năm 1991).
Sang thu là những cảm nhận tinh tế của nhà thơ trước khoảnh khắc giao mùa và những suy ngẫm về cuộc đời được thể hiện qua bức tranh thiên nhiên đó.
19. Nói với con
Sáng tác vào năm 1980, khi thế hệ nhà thơ mới thoát khỏi chiến tranh, nghèo đói lan tỏa khắp mọi nơi, từ thành phố đến nông thôn. Bài thơ được in trong tập ' Thơ VN 1945-1985'
Hoàn cảnh sáng tác giúp ta hiểu được tâm sự của người cha đối với con. Đây vừa là lời động viên tinh thần cho con vượt qua mọi khó khăn, vừa là sự tôn vinh phẩm chất kiên cường, giàu tình yêu thương của người cha.
20. Mây và sóng
“Mây và sóng” được viết bằng tiếng Ben-gan, in trong tập thơ Si-su (Trẻ thơ), xuất bản năm 1909 và được Ta-go dịch ra tiếng Anh, in trong tập Trăng non xuất bản năm 1915.
21. Bến quê
Truyện ngắn Bến quê in trong tập truyện cùng tên của Nguyễn Minh Châu, xuất bản năm 1985.
Trong truyện ngắn này, ngòi bút của nhà văn hướng vào đời sống thế sự nhân sinh thường ngày, với những chi tiết sinh hoạt đời thường để phát hiện những chiều sâu của cuộc sống với bao qui luật và nghịch lý, vượt ra khỏi cách nhìn, cách nghĩ trước đây của cả xã hội và của chính tác giả.
22. Những ngôi sao xa xôi
“Những ngôi sao xa xôi” ở trong số những tác phẩm đầu tay của Lê Minh Khuê,viết năm 1971, lúc cuộc kháng chiến chống Mỹ của dân tộc đang diễn ra các liệt.Văn bản đưa vào sách giáo khoa có lược bớt một số đoạn. Truyện ngắn được đưa vào tuyển tập “Nghệ thuật truyện ngắn thế giới” xuất bản ở Mỹ.
“Những ngôi sao xa xôi” kể về cuộc sống chiến đấu của ba cô thanh niên xung phong – tổ trinh sát mặt đường – Phương Định, Nho và chị Thao. Họ sống trong một cái hang,trên cao điểm tại một vùng trọng điểm ở tuyến đường Trường Sơn những năm chống Mỹ. Công việc của họ là quan sát máy bay địch ném bom, đo khối lượng đất đá để san lấp hố bom do địch gây ra, đánh dấu những quả bom chưa nổ và phá bom. Công việc nguy hiểm, luôn phải đối mặt với cái chết, nhưng cuộc sống của họ vẫn không mất đi niềm vui hồn nhiên của tuổi trẻ, những giây phút thảnh thơi, thơ mộng. Họ rất gắn bó, yêu thương nhau dù mỗi người một cá tính. Trong một lần phá bom, Nho bị thương, hai người đồng đội hết lòng lo lắng và chăm sóc cho Nho. Một cơn mưa đá vụt đến và vụt đi đã gợi trong lòng Phương Định bao hoài niệm, khát khao.
Mỗi người có một cá tính riêng nhưng ở họ đều ngời sáng vẻ đẹp của chủ nghĩa anh hùng Việt Nam, của tuổi trẻ Việt Nam. Viết về ba cô thanh niên xung phong, Lê Minh Khuê đã không tô vẽ, không mĩ lệ mà miêu tả hết sức cụ thể, chân thực bằng cách cá thể hóa nhân vật với những hình ảnh rất đời thường. Họ đã từ cuộc đời bước vào trang sách, trở thành những anh hùng – những ngôi sao trên bầu trời Trường Sơn.
23. Con chó Bấc
Tiếng gọi từ vùng hoang dã, sáng tác vào năm 1903, là một tiểu thuyết mà tác giả viết sau khi trải qua những trải nghiệm tìm kiếm vàng ở miền Clân-đai-cơ, Ca-na-đa. Con chó Bấc được trích từ tiểu thuyết này, đầu đề là do người biên soạn sách đặt.
24. Chiến đấu vì một thế giới hòa bình
Tác phẩm này được trích từ bài diễn văn của G.G. Mác - một phần của cuộc họp lần thứ hai vào tháng 8 năm 1986 giữa các lãnh đạo của 6 quốc gia Ấn Độ, Mê-hi-cô, Thụy Điển, Ác-hen-ti-na, Hy Lạp và Tan-da-ni-a tại Mê-hi-cô, nhằm đưa ra một tuyên bố kêu gọi chấm dứt cuộc đua vũ khí, hủy bỏ vũ khí hạt nhân để bảo vệ an ninh và hòa bình thế giới.
25. Trò chuyện về việc đọc sách
Bài luận này của Chu Quang Tiềm được trích từ cuốn “Danh nhân Trung Quốc bàn về niềm vui và nỗi buồn khi đọc sách”, xuất bản tại Bắc Kinh (1995), được dịch bởi Trần Đình Sử.
26. Tiếng nói trong văn học
Tiểu luận “Tiếng nói trong văn học” được Nguyễn Đình Thi viết vào năm 1948 (thời kỳ đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp), được xuất bản trong cuốn “Một số vấn đề văn học” (xuất bản năm 1956).
27. Cha của Xi-mông
- Đoạn văn này là một phần của truyện ngắn Cha của Xi-mông, được lấy từ Tuyển tập truyện ngắn Pháp, thế kỷ XIX, dịch bởi Lê Hồng Sâm, xuất bản bởi NXB Đại học và THCN, Hà Nội, 1986.