Trong đề từ tập thơ Đoạn trường tân thanh, tiến sĩ Phạm Quý Thích đã viết:
Mặt ngọc lỡ sao vùi đáy nước,
Lòng trinh không thẹn với Kim lang.
Đoạn trường mộng tỉnh duyên đà đứt,
Bạc mệnh đàn ngưng hận vẫn vương...
(Nguyễn Quảng Tuân dịch)
Phạm Quý Thích, một đồng thời với Nguyễn Du, đã vinh danh và ca ngợi giá trị nhân đạo của Truyện Kiều trong lời đề từ của ông. Sự sống lưu lạc của Kiều trong mười lăm năm là một câu chuyện bi kịch, tràn ngập nước mắt, khiến lòng người xúc động. Những câu thơ dồn dập của Kiều gợi lên một tình thương cháy bỏng của Nguyễn Du trước số phận đau đớn của con người.
Tinh thần nhân đạo là nguồn cảm hứng tinh thần lan tỏa trong Truyện Kiều. Đó là tiếng nói ca ngợi những phẩm chất tốt đẹp của con người như tài năng, lòng hiếu nghĩa, lòng vị tha, và lòng trung thực trong tình yêu. Đồng thời, đó cũng là tấm lòng của nhà văn đồng cảm với những nỗi đau, sự đau khổ của con người, đặc biệt là đối với người phụ nữ 'bạc mệnh' trong xã hội phong kiến.
Dám hy sinh mạng sống con
Hoa dù rơi cánh, lá vẫn xanh cây.
Đọc Truyện Kiều theo cuộc đời gian trải của Kiều, ta rất khâm phục tấm lòng nhân ái, hiếu thảo và tình nghĩa của nàng. Kiều vượt qua mọi đau thương của bản thân để dành hết tình thương cho cha mẹ và hai em. Nàng lo lắng cho cha mẹ già yếu, buồn bã, không ai chăm sóc:
Thương người đến lúc tức bày,
Quạt gió âu yếm, ấm lòng ai.
Tình cảm “trao duyên' trong Truyện Kiều cũng là một nét đẹp của tình yêu nhân ái. Đối mặt với số phận “Hiếu tình khôn nhẽ hai đường vẹn hai”, Kiều đã “ủy em' và trao duyên cho Thuý Vân thay mình gặp chàng Kim:
...Sẽ đến xuân vẫn còn nhiều,
Xót máu thương, em thay lời nước non.
Chị dù thân thể hủy hong,
Cười xoa một đời vẫn thơm phương xa.
Với chiếc thoa và mảnh đất,
Duyên này gìn giữ, món quà này cho chung tình...
Tinh thần nhân đạo trong Truyện Kiều cũng là tiếng nói đồng cảm, đồng lòng của thi sĩ Nguyễn Du với ước mơ về công bằng và khát vọng về tự do.
Số phận con người là đề tài không ngừng đau đớn trong tâm hồn của Nguyễn Du. Trái tim rộng lượng của nhà thơ đã dành cho sự đau khổ và đồng cảm sâu sắc với những số phận bất hạnh và khổ đau.
Sau khi bán mình cho Mã Giám Sinh, Kiều đã trải qua mười lăm năm lưu lạc, chịu đựng đủ loại đau khổ và nhục nhã: “Thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần'. Từ Hải rơi vào bẫy của Hồ Tôn Hiến, bị giết. Kiều phải phục vụ rượu chè đánh đàn trong những bữa tiệc buồn uất ức, nàng đã nhảy xuống sông Tiền Đường tự vẫn. Câu thơ của Nguyễn Du như một lời than thở từ sâu thẳm lòng. Những từ ngữ: 'thương thay', “hại thay”, “làm chi', 'còn gì là thân' tựa như những giọt lệ chứa chan tình nhân đạo, khóc than cho số phận cay đắng:
... Thương thay chẳng lấy đoái,
Hại thay mang lấy vẻ ngoài sắc phong.
Bao nỗi oan trái dư hòa
Chở cho cuộc sống còn gì là thân! ...
Đạm Tiên mãi là một hình bóng ám ảnh. Cô kỹ nữ “tài sắc một thời” nhưng số phận lại đau đớn “Sống như vợ cả nhà người – Hại thay thuyền úa tạo ma không chồng'. Kiều đứng trước mộ Đạm Tiên, lên tiếng đồng cảm thấm thiết! Kiều khóc Đạm Tiên hay Nguyễn Du khóc thương cho những đau thương của bao người phụ nữ bị áp bức trong xã hội cũ?
Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung.
Nguyễn Du, thiên tài văn học của dân tộc qua hình ảnh và tính cách của nhân vật chính Thuý Kiều, đã thể hiện trong tác phẩm tuyệt vời Đoạn trường tân thanh sự cảm hứng nhân đạo sâu sắc, đầy xúc động.
Tinh thần nhân đạo cao quý là yếu tố tư duy đặc biệt tạo nên vẻ đẹp nhân văn của tác phẩm này. Chúng ta tự hào về Nguyễn Du, một tâm hồn nhạy cảm với vẻ đẹp của thiên nhiên, một trái tim chứa đựng tình yêu thương, đồng cảm với tâm trạng và số phận của con người, một tài năng lớn về văn chương đã làm sáng ngời nền văn học cổ Việt Nam.
Nguyễn Du và Truyện Kiều vẫn sống mãi trong lòng dân tộc, như lời ru êm ái của mẹ. Cảm hứng nhân đạo của nhà thơ là tiếng thương không nguôi:
Muôn năm sau vẫn nhớ Nguyễn Du
Tiếng thương như tiếng mẹ ru đời người...
(Kính gửi cụ Nguyễn Du - Tố Hữu)
Trích: Mytour