Đề bài: Tinh thần nhân đạo của Nguyễn Đình Chiểu thể hiện như thế nào khi xây dựng hình tượng người nông dân anh hùng trong bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc
Phân tích về tinh thần nhân đạo của Nguyễn Đình Chiểu trong bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc
Bài viết:
Bí quyết Phương pháp phân tích đoạn thơ xuất sắc
Hình tượng người anh hùng nông dân trong văn học luôn là nguồn cảm hứng về nhân đạo cho nhiều tác giả. Lấy cảm hứng từ lịch sử dân tộc oai vĩ, những người nông dân mang trong mình sức mạnh vượt khó, tinh thần bất khuất, là mẫu mực lý tưởng của cộng đồng. Trong văn học Trung đại, người anh hùng nông dân được tôn vinh là những người sẵn lòng hy sinh vì mục tiêu cao cả, to lớn của xã hội. Với tác phẩm 'Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc', Nguyễn Đình Chiểu đã tạo ra một tượng đài vĩ đại cho người nông dân Việt Nam, với phẩm chất chân thành, giản dị nhưng không hề lưng chừng trước kẻ thù ngoại xâm. Qua hình ảnh người nông dân anh hùng, tác giả đã thể hiện sâu sắc tinh thần nhân đạo, với sự tôn trọng, ca ngợi và biết ơn những tiền bối đã hy sinh vì độc lập dân tộc.
Xuất thân từ gia đình nhà nho yêu nước, phải lánh tạm sự xâm lược của thực dân Pháp, Nguyễn Đình Chiểu thấu hiểu nỗi đau, thống khổ và mất mát khi đất nước bị xâm lăng. Viết 'Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc' trong bối cảnh đau buồn của hàng chục người nông dân phải bán mặt, bán lưng cho đất, tác phẩm không chỉ là một bài tôn vinh mà còn là lời tri ân sâu sắc đối với những chiến sĩ dũng cảm, thể hiện tinh thần nhân đạo, tình yêu quý của tác giả cũng như miêu tả hình ảnh cao thượng của những người nông dân yêu nước.
Tinh thần nhân đạo qua hình tượng người nông dân anh hùng xuất phát từ cách xây dựng hình ảnh của họ. Những anh hùng dân tộc hiện lên với phẩm chất cao quý, tư thế kiên cường, dũng mãnh, không sợ khó khăn gian khổ. Họ, những người nông dân trước kia chỉ quen với cày cuốc, nay đã đứng lên bảo vệ quê hương, đối đầu với kẻ thù vũ trang. Đứng trước tình hình đất nước hiểm nguy, họ sẵn lòng bỏ ruộng đồng, đi theo tiếng gọi của Tổ quốc:
Súng giặc réo rắt
Lòng dân đều biết
Mười năm mồ hôi chảy xuôi, danh tiếng nhưng vẫn không thể nào nổi tiếng như pháo
Một trận chiến vì nước, dù danh tiếng vẫn như tiếng mõ vắng.
Lãnh thổ đất nước bị đe dọa là lúc tinh thần bất khuất của nhân dân trỗi dậy, như một cơn sóng cuồn cuộn cuốn trôi mọi âm mưu xâm lược. Đứng trước thử thách khắc nghiệt, tấm lòng trung kiên với đất nước của họ được 'trời biết', có trời cao làm chứng cho lòng dũng cảm của họ. Như những người lính im lặng, không khoa trương, nhưng sự hi sinh anh dũng của họ vẫn được trời biết. Dù rơi vào cảnh bi thương, những chiến sĩ không hề do dự mà nâng cao tinh thần 'dù danh tiếng vẫn như tiếng mõ vắng', dù hy sinh nhưng danh vọng vẫn luôn sống mãi. Nguyễn Đình Chiểu ca ngợi tinh thần nhân đạo thông qua hình tượng người lính nông dân, biểu tượng cao quý về lòng yêu nước, sẵn sàng hy sinh vì dân tộc của người dân miền đất Cần Giuộc.
Tinh thần nhân đạo được tác giả thể hiện qua việc khen ngợi vẻ đẹp của nhân vật anh hùng. Theo quan điểm của ông, người nông dân là biểu tượng của những phẩm chất quý báu, tốt đẹp. Họ là những người dân hiền hòa, chất phác, chân thành:
Nhớ linh xưa
Cõi tạm vắng bóng
Toan tính khó khăn
Cuộc sống của họ gắn liền với cày cuốc, chỉ biết làm việc, tích cóp, yêu chuộng hòa bình. Nỗi lo lắng của họ chỉ là đủ ăn đủ mặc, không đói khát, không tranh chấp, không cần binh đao. Những người dân hiền lành luôn hướng thiện là biểu tượng đẹp đẽ của người Việt Nam. Người nông dân ở Cần Giuộc cũng như vậy, những lo toan của mùa vụ, thời tiết bất ổn đã gánh nặng đủ lớn trên đôi vai của họ. Tuy nhiên, lòng yêu nước của những người lao động như là một ngọn lửa tiềm ẩn luôn sẵn sàng bùng cháy trong họ. Khi bước chân của quân thù đặt lên ruộng đất nước, họ không còn là những người nông dân vô hại nữa mà trở thành những chiến binh mạnh mẽ, mang theo mũ bảo vệ ra trận đánh giặc:
Bữa thấy bòng bòng che trắng lốp; muốn tới ăn gan
Ngày xem ống khói chạy đen sì, muốn ra cắn cổ
Giống như hình tượng Thánh Gióng trong quá khứ, từ một cậu bé không biết nói không biết cười, khi nghe tin giặc đến xâm lược bỗng trở nên mạnh mẽ như một cơn gió. Bản chất thật thà, lương thiện của người nông dân khi gặp lũ bất lương liền biến thành một đội quân lính mạnh mẽ mang tinh thần bất khuất. Cảm giác căm phẫn, thù hận với quân giặc biến thành mong muốn hành động, muốn tiêu diệt 'muốn tới ăn gan', 'muốn ra cắn cỏ', muốn tiêu diệt triệt để thực dân Pháp. Khác biệt hoàn toàn so với hình ảnh quen thuộc về người nông dân, chính vì tình yêu nước, vì lòng căm hận giặc, và vì tự do của bản thân và những người thân yêu, họ sẵn lòng đứng lên, biến thành một đội quân tinh nhuệ, không sợ khó khăn. Tính nhân văn được thể hiện rõ qua hình ảnh những người lính nhân dân được tác giả mô tả. Đối mặt với sự thờ ơ, vô trách nhiệm của các quan lại triều đình, họ từ những người 'chỉ biết cày cấy', 'làm ruộng, cày bừa, gieo cấy... công việc hằn quen' biến thành những chiến binh dũng mãnh, oai phong, với 'lửa thiêng thiêng như đốt rơm con cúi', 'gươm đeo như lưỡi dao cắt'. Đi ra trận với những vũ khí tự chế sơ sài, nhưng đầy tinh thần quyết chiến quyết thắng, không e ngại hi sinh vì độc lập tự do. Họ chiến đấu vì đất nước, chiến đấu vì miếng cơm manh áo của mình. Tính nhân văn qua hình ảnh những người lính nhân dân được phản ánh qua mục tiêu cao cả của cuộc chiến cùng tinh thần quyết tâm của nhân dân khi đứng trước nguy hiểm, gian khổ.
Tinh thần nhân đạo trong 'Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc' tỏa sáng như một bản hòa âm ca ngợi những anh hùng dũng cảm đã hi sinh cho sự nghiệp cao cả. Với lối văn đầy cảm xúc, Nguyễn Đình Chiểu vừa tôn vinh, vừa thể hiện nỗi nhớ mong, tiếc nuối về tinh thần cao quý của họ.
Chi nhọc vận mệnh, kèn trống gọi mời; trống kêu, đạp rào chạy tới, coi giặc cũng như không
Chẳng sợ thằng Tây ném đạn, đạn to, xông vào cửa, dám hy sinh như không
Bản hùng ca của những người chiến thắng, của những anh hùng, vượt qua cả nỗi sợ hãi, không quản ngại sự chênh lệch vũ trang. Chỉ cần có tinh thần, có ý chí quyết tâm sẽ đạt được thành công. Mỗi câu văn mang dấu ấn hào hùng, tráng lệ. Những người nông dân hiền lành bất khuất có thể chiến đấu như những lính đã được đào tạo chuyên nghiệp. Sức mạnh tinh thần và niềm tin vào chiến thắng đã trở thành động lực vô hạn. Hình tượng người anh hùng áo vải, người nghĩa sĩ nông dân như một bức tranh thể hiện sức mạnh tập thể, là sự đoàn kết của toàn dân. Giống như những dòng thơ của Nguyễn Khoa Điềm:
Họ sống và chết
Giản dị và bình tĩnh
Không ai nhớ tên
Nhưng họ đã xây dựng nên Đất Nước
Những người nông dân sống một cuộc đời giản dị, không đòi hỏi, không trang đấu. Khi đất nước gặp khó khăn, họ là những người tiên phong đấu tranh quật cường, sẵn sàng hy sinh máu và nước mắt để bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ tổ quốc. Không gì quý hơn nhân dân, họ là cốt cách, là nền tảng, là nguồn sức mạnh của quốc gia. Không có nhân dân thì không có đất nước, không có sức mạnh để chống lại kẻ xâm lược.
Tính nhân văn cao cả nhất trong tác phẩm là những câu thơ biểu hiện sự sẵn sàng hy sinh của những người chiến sĩ:
Thà hy sinh để bảo vệ đất nước, vinh quang hơn cả việc sống chịu sự khinh bỉ của kẻ thù. Họ không sợ đối đầu với quân thù hung ác, sống trong cảnh nghèo khổ.
Những lời ca tụng trở nên hoàn hảo khi cho phép những người lính tự biểu lộ ước muốn 'thà chết vinh còn hơn sống nhục', sẵn sàng đánh giặc và hi sinh. Dù chỉ là hai mươi chiến sĩ, họ đã góp phần quan trọng vào nền độc lập của quốc gia. Dù thân xác họ đã tan thành cát bụi, nhưng hình ảnh và công lao của họ sẽ sống mãi trong lòng những người còn sống.