Trần Đăng Khoa
Từng là chiến sĩ gác Trường Sa, nhà thơ tài năng Trần Đăng Khoa đã có những nhận định sâu sắc và độc đáo về vùng biển đảo này. Dưới đây là một trích đoạn từ bài viết mới nhất của ông mang tựa đề: 'Tổ Quốc ở Trường Sa'.
Gần đây, tại đảo Trường Sa lớn, đã diễn ra một sự kiện đặc biệt: Khánh thành bức tranh bằng gốm ghép hình lá cờ Việt Nam với kích thước kỷ lục (12,4m X 25m).
Tranh cờ gốm trên mái tòa nhà hội trường của đảo Trường Sa lớn đã được công nhận là lá cờ Tổ Quốc bằng gốm lớn nhất Việt Nam, nặng 3,5 tấn, diện tích 310 m2, được lắp ráp từ hàng vạn viên gốm để chống nắng, chống gió mặn mà không phai màu theo thời gian. Từ trên vệ tinh, có thể nhìn thấy cái 'cột mốc' chủ quyền đặc biệt này. Đây là công trình của họa sĩ Nguyễn Thu Thủy - người cũng đã tạo ra 'Con đường gốm sứ ven sông Hồng ở Hà Nội'. Một ý tưởng vô cùng ý nghĩa và độc đáo.
Từ trên không trung (từ vệ tinh, Google Earth hoặc máy bay), mọi người có thể nhìn thấy lá cờ Việt Nam tại đảo Trường Sa lớn.
Hiện nay, Trường Sa vẫn là nơi đầy sóng gió, bất an nhất của Tổ Quốc. Nếu có biến động nào xảy ra trong đất nước, chắc chắn rằng nó sẽ bắt đầu từ quần đảo bão tố này. Vào đêm 2/9 vừa qua, Đài Truyền hình Việt Nam và Đài Tiếng nói Việt Nam đã phối hợp tổ chức một buổi giao lưu nghệ thuật để giới thiệu công trình đặc biệt này. Thay mặt cho những chiến sĩ canh giữ biển đảo, tôi muốn bày tỏ lòng biết ơn đến các đồng nghiệp và nhân dân toàn quốc đã nhớ đến những chiến sĩ tại vị trí đầu sóng ngọn gió trong khoảnh khắc linh thiêng của Ngày Quốc Khánh.
Trước mặt khán giả, trên màn hình là cột mốc chủ quyền của Đảo Trường Sa cùng với tám bản đồ cổ từ thế kỷ 17 của ông cha ta, cây cột mốc ấy là một tấm giấy thông hành cho Trường Sa ra với thế giới. Tuy nhiên, không phải ai cũng có thể hiểu được ý nghĩa của nó, vì nó quá trừu tượng và mung lung. Tôi đã cố gắng truyền đạt một cách dễ hiểu hơn, bằng cách mời khán giả nhìn vào bản đổ của Tổ Quốc.
Trên bản đổ đất nước, có hình ảnh của một bà mẹ già gày gò, đội nón lá, lưng còng gập có lẽ vì phải gánh vác quá nhiều sứ mệnh lịch sử. Bà mẹ đó vẫn phải lặn lội trên thân cò, bước thập thì thân bên bờ sóng gió. Tấm lưng còng gập kia quay ra đại dương. Điều giữ cho tấm lưng còng ấy không bị lạnh chính là Trường Sa và Hoàng Sa đây.
Trường Sa, theo lời của tổ tiên chúng ta, là một dải cát dài. Nhưng có những hòn đảo không còn cát. Chúng mới chỉ là những rặng san hô ngầm sâu dưới nước ba, bốn mét, giống như một cái bào thai. Các chiến sĩ của chúng ta đã xây dựng chòi bạt giữa những sóng gió hoang vu để canh giữ, bảo vệ.
Nhiều đêm ngồi trên những chiếc chòi bạt hoang lạnh đó, giữa một bầu trời mây mù, tôi thường cảm thấy như mình đang ở trong thời kỳ tiền sử, chứng kiến sự hình thành của trái đất. Hòn đảo vẫn còn đầy tiếng gầm rú dưới sóng. Nó giống như đang chống lại, đang giãy giụa, muốn đập vỡ cái bóng tối của biển cả xám xịt kia để ra ngoài. Nhưng theo tính toán của các nhà khoa học, cần phải qua hơn một trăm năm nữa, nó mới có thể nổi lên. Tuy vậy, đã có bao nhiêu người quan sát, theo dõi. Máu của các chiến sĩ Trường Sa, Hoàng Sa đã đổ ở đây. Nhiều xác hài cốt vẫn còn nằm dưới đáy biển chứa đựng nỗi buồn đắng chát kia.
Tôi biết rằng hòn đảo lớn Trường Sa đã thay đổi nhiều. Nhưng khi được chứng kiến những thay đổi đó trực tiếp, tôi vẫn không thể không cảm thấy kinh ngạc. Tôi đặt chân lên hòn đảo này lần đầu tiên vào những năm bảy mươi của... thế kỷ trước. Bây giờ, Trường Sa vẫn là nơi nghèo khó. Một vùng cát bạc chang dưới ánh nắng chói chang. Trên đảo chỉ có một loại cây. Một loại cây duy nhất. Đó là cây dại sinh sống trên đá san hô. Lính gọi nó là cây Phong ba. Cái tên đó được lính đặt ra. Nghe có vẻ dữ dội, khó khăn và gian nan. Nhiều hòn đảo thậm chí không có cây. Bóng râm duy nhất tỏa ra trên mặt cát cháy là bóng dáng của người lính.
Cây phong ba trước chùa Song Tử Tây
Ở đảo, như ở một thế giới khác. Không có tiền bạc, không có vật chất, thậm chí không có cả thời gian. Chỉ có mặt trời mọc là một ngày mới bắt đầu và mặt trời lặn là một ngày lại kết thúc. Mặc dù đảo luôn nhận được sự quan tâm của cả đất liền, nhưng đó không phải là lý do làm giảm bớt nỗi vất vả của người lính đảo. Ngay cả việc đơn giản nhất như xác định thời gian cũng trở nên khó khăn. Mặc dù có nhiều loại lịch, nhưng thậm chí cả việc biết ngày và tháng cũng không dễ dàng. Mặc dù có tờ lịch lớn treo ở phòng chỉ huy đảo, mỗi tiểu đội trong đơn vị cũng có lịch riêng, và mỗi người lính cũng có một cuốn lịch nhỏ trong túi, nhưng việc xác định ngày tháng vẫn là một thách thức.
Trên đảo không biết mùa xuân, hạ, thu, đông. Ngày Tết vẫn dần trôi trong cái nắng gay gắt. Khi nào nghe được sóng Đài Tiếng nói Việt Nam phát thanh, hoặc chứng kiến buổi tường thuật bóng đá, có thể nhận ra ngay là buổi chiều Chủ nhật. Nhưng mỗi tháng lại có tới bốn ngày Chủ nhật. Vậy nên, là Chủ nhật nào? Không thể xác định được. Các quản lý trên đảo buộc phải chọn một ngày để thống nhất thời gian cho cả 'vương quốc' sóng gió.
Xin cảm ơn Họa sĩ Nguyễn Thu Thúy. Chị hiểu và chia sẻ với những người lính biển đã xây dựng lá cờ Tổ Quốc thành một biểu tượng linh thiêng giữa bản dòng này. Lá cờ luôn là niềm tự hào của người lính, bảo vệ họ.
Người lính ở đất liền có đất đai và rừng rậm che chở. Đất trở thành hào kiệt và nơi ẩn náu. Theo lời Tố Hữu: 'Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù', nhưng trên biển, người lính có gì? Trong một bài thơ, tôi viết:
Chúng tôi đứng dưới chân trời cao
Trên đầu sóng nước, dưới chân mây trời...
Ôi, tại sao lại như thế? Thực ra, phải là 'Trên đầu sóng nước, dưới chân mây trời'. Nhưng điều đó quá bình thường, quá phổ biến, và không phải ở Trường Sa. Trên đảo này, mọi quy luật tự nhiên có thể bị đảo lộn. 'Dưới chân mây trên đầu sóng nước...'. Chỉ có lòng dũng cảm và tình yêu Tổ quốc trở thành hào kiệt bảo vệ họ. Chúng tôi hiểu vì sao 64 người lính của đảo Gạc Ma đã dùng lá cờ Tổ Quốc quấn vào người mình để chắn đạn cho những người khác. Hình ảnh đó thật kiên cường và gan dạ. Lá cờ của Tổ Quốc thật thiêng liêng và tráng lệ. Ước gì có các con đường hoặc khu phố mang tên của 64 anh hùng trong Danh sách Anh hùng cộng sản Việt Nam.
Ta mang Tổ quốc trên vai
Trên áo là hai lá cờ.
Câu thơ đó cũng của người lính. Một câu thơ mô tả về quân hàm binh nhì. Chưa bao giờ quân hàm của chức vụ thấp nhất trong Quân đội được coi trọng và trang nghiêm như vậy.
Sóng biển vẫn mãi không ngừng
Ngàn năm sau vẫn còn Trường Sa không biến mất.
Những bài thơ này, tôi cũng tìm thấy trên những trang báo tường của các chiến sĩ ở Đảo Trường Sa. Đó không chỉ là những bài thơ, mà còn là những lời thể hiện sâu sắc của những người lính bảo vệ biển đảo...