Sügetü | |||
---|---|---|---|
Thụy hiệu | Tương Mẫn | ||
Thông tin cá nhân | |||
Sinh | không rõ | ||
Mất | |||
Thụy hiệu | Tương Mẫn | ||
Ngày mất | 1285 | ||
Giới tính | nam | ||
Quốc tịch | Đế quốc Mông Cổ | ||
Tên tiếng Mông Cổ | |||
Chữ Mông Cổ | ᠰᠦᠭᠡᠲᠦ | ||
| |||
Tên tiếng Trung | |||
Tiếng Trung | 唆都 | ||
| |||
[sửa trên Wikidata] |
Tòa Đô (tiếng Mông Cổ: ᠰᠦᠭᠡᠲᠦ, Chuyển tự Latinh: Sügetü, tiếng Trung: 唆都; ?–1285) là một tướng lĩnh Mông Cổ dưới thời nhà Nguyên thế kỷ 13.
Tại chiến trường Trung Quốc
Theo lịch sử Nguyên, Tòa Đô là người của dòng họ Trát Lạt Diệc Nhi (ngày nay là dòng họ Jalair). Tòa Đô dũng cảm và tài năng chiến đấu, được chọn vào lực lượng cận vệ và đã có nhiều thành tích về quân công. Chức vụ quan trọng đầu tiên của Tòa Đô là thiên hộ, chỉ huy hơn 1.000 quân bảo vệ Thái Xuyên.
Vào năm thứ 5 của triều Nguyên, Aju vây Tương Dương và sai Tòa Đô dẫn binh tuần tiễu. Tòa Đô đã chiếm được nhiều trại của quân Tống và trong một trận đánh, Tòa Đô một mình đã tiêu diệt hơn 300 quân thủ cấp của quân Tống. Vào năm thứ 9 của triều Nguyên (1272), quân Nguyên tấn công Phàn Thành. Tòa Đô được sai làm tiên phong và đã có nhiều thành tích xuất sắc, được trọng thưởng cao. Sau đó, trong các chiến dịch ở Giang Nam, Tòa Đô tiếp tục có nhiều công lao lớn, được sự chú ý và thăng tiến qua các chức vị như tham tri chính sự hành tỉnh Phúc Châu, sau đó là tả thừa hành tỉnh Tuyền Châu.
Tại chiến trường Chiêm Thành
Năm 1281, Tòa Đô được bổ nhiệm làm hữu thừa hành tỉnh Chiêm Thành. Vào tháng 12 năm 1282, Tòa Đô chỉ huy một đội hạm 20 vạn quân cùng 1.000 chiếc thuyền từ Quảng Châu để tấn công Chiêm Thành. Đây là phần của chiến lược giáp công nhằm vào Đại Việt, theo đó Tòa Đô sau khi chiếm Chiêm Thành sẽ tiến từ phía Nam. Đồng thời, đại quân của Thoát Hoan sẽ từ phía Bắc xuống chiến.
Ngày 30 tháng 12 năm 1282, quân đội Tòa Đô đến gần bờ biển kinh đô Vijaya của Chiêm Thành. Tòa Đô cử sứ đi dụ hàng, nhưng vua Chiêm Thành không chịu khuất phục. Cho đến ngày 13 tháng 2 năm 1283, Tòa Đô mới ra lệnh tấn công. Tòa Đô phân quân thành 3 đội. Đội chủ lực gồm 3.000 quân do Tòa Đô chỉ huy mở ba mũi tấn công vào phía Nam của một thành gỗ (Thành Thị Nại) mà quân Chiêm Thành bảo vệ kinh đô. Đội thứ hai tấn công phía Bắc. Đội thứ ba tấn công phía Đông. Tuy nhiên, trước khi ra trận, quân Tòa Đô đã gặp biển động, khiến thuyền Nguyên tan vỡ và mất mười phần bảy, tám phần. Mặc dù bị tổn thất nặng như vậy, vào chiều tối ngày đó, quân Nguyên vẫn dễ dàng chiếm được thành gỗ này.
Ngày 17 tháng 2 năm 1283, Tòa Đô tiếp tục tiến công vào kinh đô Vijaya. Vào ngày 21, quân Tòa Đô đã tiến vào kinh đô sau khi quân Chiêm Thành đã bỏ chạy khỏi kinh đô và rút lên núi rừng.
Vua Chiêm Thành là Indravaman V đã sai sứ gia là vua đến thương thảo hoãn binh với Tòa Đô. Sau đó, xin nhượng lại với Tòa Đô. Tòa Đô đã bị lừa và không tiếp tục truy kích quân Chiêm Thành, giúp Chiêm Thành có thời gian khoảng một tháng để củng cố và gia tăng lực lượng.
Kế của Chiêm Thành thành công, vì vậy khi Tòa Đô tỉnh lại và bắt đầu đánh vào ngày 16 tháng 3 năm 1283, quân Chiêm Thành dựa vào rừng núi, kháng cự quyết liệt, đạo quân Tòa Đô phải chiến đấu rất gay go. Cuối cùng, Tòa Đô phải rút quân khỏi kinh đô Vijaya và lập trại tại bờ biển (Quy Nhơn ngày nay). Quân lính của Tòa Đô đã bỏ trốn rất nhiều.
Vì lương thực cạn kiệt và viện binh đã xin không được cung cấp, Tòa Đô quyết định rút quân lên Bắc Chiêm Thành, gần biên giới với Đại Việt, xây dựng thành gỗ và mở rộng đồn điền để sản xuất lương thực. Điều này đã khiến đạo quân của Qutuqu (Hốt Đô Hốt hoặc Hốt Đô Hổ), Omar (Ô Mã Nhi) chỉ huy tiếp viện tới Quy Nhơn mà không gặp Tòa Đô; sau đó, đạo quân này đã mất nhiều thuyền do bão.
Cho đến đầu năm 1285, Tòa Đô mới rời Chiêm Thành và tiến vào Đại Việt để hợp tác chiến với Thoát Hoan.
Tại chiến trường Đại Việt
Việt Nam sử lược ghi lại rằng, vào năm 1285 khi đại quân nhà Nguyên xâm lược Đại Việt, Tòa Đô đã rời Chiêm Thành, dẫn quân tiến lên phía Bắc để hợp tác với Thoát Hoan. Đầu tháng 3 năm 1285, Tòa Đô tấn công vùng Bố Chính của Đại Việt (nay là Quảng Bình), sau đó tiến vào Nghệ An và đánh bại quân của Trần Nhật Duật. Trần Kiện phản bội, hướng dẫn quân Tòa Đô đánh Trần Quang Khải ở Thanh Hóa. Quân Đại Việt gánh chịu tổn thất nặng nề. Chưa đầy nửa tháng, Tòa Đô đã chiếm được cả vùng Thanh-Nghệ.
Sau khi chiếm Thanh-Nghệ, Toa Đô dẫn quân ra Trường Yên (Ninh Bình). Khi biết cánh quân Toa Đô đói khát đã lâu, Thoát Hoan lệnh cho Toa Đô đóng ở Trường Yên để tìm kiếm lương thực. Vào nửa cuối tháng 3 năm 1285, khi nhận tin vua quân Đại Việt đi đường biển về Thanh Hóa, Thoát Hoan lệnh Toa Đô quay lại Thanh Hóa để truy đuổi. Ô Mã Nhi được Thoát Hoan chỉ huy xuống hỗ trợ Toa Đô. Tuy nhiên, Toa Đô không tìm được các vua Trần. Sau khi quân Đại Việt chỉnh đốn lại từ Thanh Hóa và đánh vào phía Bắc vào khoảng đầu tháng 5 năm 1285.
Tháng 5 năm 1285, Toa Đô và Ô Mã Nhi dẫn quân từ Thanh Hóa theo đường biển vào sông Hồng để đi lên Thăng Long hợp quân với Thoát Hoan. Trần Nhật Duật đối mặt với Toa Đô tại Hàm Tử. Toa Đô thất bại và phải rút về cửa Thiên Trường. Trần Nhật Duật được lệnh tiếp tục ngăn không cho cánh quân của Toa Đô hợp quân với Thoát Hoan. Trong khi đó, Trần Quang Khải, Phạm Ngũ Lão, Trần Quốc Toản tấn công thủy quân Nguyên tại Chương Dương ngoài thành Thăng Long. Quân Đại Việt chiến thắng và tiến sát chân thành Thăng Long. Thoát Hoan dẫn quân ra ngoài thành để đối đầu và bị đánh bại, rút lui khỏi thành về phía Bắc của sông Hồng.
Toa Đô không biết Thoát Hoan đã rút lui, tiếp tục tiến quân vào đóng ở sông Thiên Mạc (đoạn sông Hồng ở Hưng Yên). Khi nghe tin Thoát Hoan đã rút lui, Toa Đô lập tức rút về đóng ở Tây Kết (Khoái Châu). Ngày 24 tháng 6 năm 1285, thượng hoàng Trần Thánh Tông, hoàng đế Trần Nhân Tông trực tiếp chỉ huy quân đánh Toa Đô. Toa Đô cùng Ô Mã Nhi thất bại, bỏ thuyền và đi bộ ra biển. Trên đường bỏ chạy, Toa Đô bị quân Đại Việt bao vây và chết trúng tên. Ô Mã Nhi thoát được về Thanh Hóa. Theo Đại Việt sử ký toàn thư, khi vua Trần Nhân Tông nhìn thấy thủ cấp của Toa Đô, ông cởi áo ngự phủ lên và nói 'người làm tôi phải như thế này' trước khi sai người làm lễ tiếp liệm.