
Tôm càng xanh | |
---|---|
Tình trạng bảo tồn | |
Ít quan tâm (IUCN 3.1) | |
Phân loại khoa học | |
Giới (regnum) | Animalia |
Ngành (phylum) | Arthropoda |
Phân ngành (subphylum) | Crustacea |
Lớp (class) | Malacostraca |
Bộ (ordo) | Decapoda |
Phân thứ bộ (infraordo) | Caridea |
Họ (familia) | Palaemonidae |
Chi (genus) | Macrobrachium |
Loài (species) | M. rosenbergii |
Danh pháp hai phần | |
Macrobrachium rosenbergii de Man, 1879 |
Tôm càng xanh (Macrobrachium rosenbergii), hay còn gọi là tôm sông khổng lồ hoặc tôm nước ngọt khổng lồ, là một loài tôm thuộc họ Tôm gai quan trọng về mặt thương mại. Nó được tìm thấy ở các vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới của Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương, từ Ấn Độ tới Đông Nam Á và Bắc Úc. Tôm càng xanh cũng đã được giới thiệu đến các khu vực ở Châu Phi, Thái Lan, Trung Quốc, Nhật Bản, New Zealand, Châu Mỹ và Caribe. Đây là một trong những loài tôm nước ngọt lớn nhất trên thế giới và được nuôi trồng thủy sản rộng rãi ở một số quốc gia để làm thực phẩm. Dù M. rosenbergii được xem là loài nước ngọt, con trưởng thành của nó phụ thuộc vào vùng nước lợ. Sau khi qua giai đoạn ấu trùng và trở thành con non, chúng sẽ sống hoàn toàn trong nước ngọt.
Nó còn được gọi là tôm Malaysia, scampi nước ngọt (Ấn Độ), hoặc cherabin (Úc). Tại địa phương, nó có tên gọi là Golda Chingri ở Bangladesh, udang galah ở Indonesia và Malaysia, uwang hoặc ulang ở Philippines, và koong mae nam hoặc koong ghram gram ở Thái Lan.
Mô tả

M. rosenbergii có thể phát triển đến chiều dài hơn 30 cm. Chúng thường có màu nâu nhưng có thể khác nhau. Các cá thể nhỏ hơn có thể có màu xanh lá và thể hiện những sọc dọc mờ nhạt. Râu của chúng nổi bật với 11 đến 14 răng lưng và 8 đến 11 răng bụng. Cặp chân đầu tiên dài và rất mảnh, kết thúc bằng móng vuốt mỏng được dùng để săn mồi. Cặp chân đi bộ thứ hai lớn hơn nhiều và mạnh mẽ, đặc biệt là ở con đực. Các móng vuốt linh hoạt của chân đi bộ thứ hai được bao phủ bởi lớp lông dày làm cho chúng mượt mà như nhung. Màu sắc của móng vuốt ở con đực thay đổi theo vị trí xã hội của chúng.
Con cái có thể phân biệt với con đực bởi phần bụng rộng hơn và cặp chân thứ hai nhỏ hơn. Các lỗ sinh dục nằm ở các phân đoạn cơ thể có cặp chân thứ năm và cặp chân thứ ba tương ứng ở con đực và con cái.
Hình dáng
Con đực của M. rosenbergii có ba dạng hình thái khác nhau. Giai đoạn đầu gọi là 'đực nhỏ' (SM); giai đoạn này có móng vuốt ngắn, gần như mờ. Nếu điều kiện cho phép, các con đực nhỏ sẽ phát triển thành 'vuốt cam' (OC), có móng vuốt cam lớn trên cặp chân thứ hai, có thể lớn gấp 0.8 đến 1.4 lần kích thước cơ thể. Sau này, các con đực OC có thể tiến sang giai đoạn thứ ba, gọi là 'vuốt xanh' (BC). Chúng có móng vuốt xanh lam và cặp chân thứ hai dài gấp đôi cơ thể.
Con đực M. rosenbergii tuân theo hệ thống phân cấp nghiêm ngặt: các con BC thống trị con OC và các con OC thống trị con SM. Sự hiện diện của con đực BC ngăn chặn sự phát triển của con SM và làm chậm quá trình biến dạng từ OC thành BC. Con OC sẽ tiếp tục phát triển cho đến khi nó lớn hơn con đực BC lớn nhất trong vùng lân cận trước khi chuyển sang BC. Cả ba giai đoạn của con đực đều tham gia vào hoạt động sinh sản và các con cái đã giao phối sẽ hợp tác với bất kỳ con đực nào để sinh sản. Con đực BC bảo vệ con cái cho đến khi vỏ của chúng cứng lại; con OC và SM không có hành vi này.
Chu kỳ sống
Trong quá trình giao phối, con đực đặt ống sinh tinh dưới lồng ngực của con cái, giữa các chân đi bộ của nó. Sau đó, con cái sẽ đùn trứng qua các ống sinh tinh. Con cái mang theo những quả trứng đã được thụ tinh cho đến khi chúng nở; thời gian này có thể thay đổi tùy theo điều kiện, nhưng chủ yếu dưới ba tuần. Con cái có thể đẻ từ 10.000 đến 50.000 trứng mỗi năm.
Từ những quả trứng này, ấu trùng đầu tiên của động vật giáp xác nở ra. Chúng trải qua một số giai đoạn ấu trùng trước khi biến thành hậu ấu trùng, khi đó chúng dài từ 7,1 đến 9,9 mm và có hình dạng giống con trưởng thành. Quá trình biến đổi này thường kéo dài khoảng từ 32 đến 35 ngày sau khi nở. Những hậu ấu trùng sau đó sẽ di chuyển trở lại môi trường nước ngọt.