Bên bờ dòng sông Hằng - tác phẩm văn học cuối cùng của nhà văn người Nhật Bản Endo Shusaku. Hai năm sau đó, ngay trước khi Endo Shusaku qua đời, ông cũng mong muốn cuốn sách được chôn cùng với mình.
Qua từng chương trong cuốn sách, Endo Shusaku kể về chuyến hành trình đến Ấn Độ của một nhóm du khách Nhật Bản. Bên bờ dòng sông Hằng, khác với những du khách chỉ tò mò hoặc muốn khám phá, họ đến với tâm trạng nặng nề. Một người đi tìm kiếm hình bóng của người vợ đã khuất, một người khao khát điền đầy khoảng trống trong lòng, người khác muốn biết ơn vì sự sống còn, và cũng có kẻ muốn hàn gắn những vết thương tinh thần do chiến tranh gây ra.
“Dòng sông lặng lẽ trôi. Sông bình yên trước cái chết, như những người đàn ông trong buổi tang hội, ngồi im bặt. Ở đây, cái chết được coi là điều tự nhiên.”
Ấn Độ - một đất nước hỗn loạn, đa dạng và phong phú nhưng cũng chứa đựng sự huyền bí, đây là nơi lý tưởng để những nhân vật trong cuốn sách bắt đầu hành trình tìm kiếm câu trả lời cho những thắc mắc của họ. Sông Hằng - dòng sông thánh thiện chứa đựng tất cả, từ sự sống đến cái chết. Sông không chỉ được ca tụng, như những lời ca ngợi trong Phật giáo, mà còn thể hiện khái niệm vô cùng lớn lao. Nó nặng trĩu với triết lý về cuộc sống, về số phận, và không chỉ thuộc về những người theo đạo Ấn Độ.
Nhóm du khách Nhật Bản có tìm được ý nghĩa cuộc sống mà họ đang tìm kiếm tại nơi này không?
Trường hợp ông Isobe
Âm thanh và hương vị là hai điều khiến con người dễ nhớ về một khoảnh khắc nào đó. Tiếng rao bán khoai nướng nóng hổi ngoài đường vang vọng trong tai như những lời chế nhạo với nỗi sợ hãi của ông Isobe mỗi khi ông nhớ lại khi bác sĩ thông báo vợ ông mắc phải căn bệnh ung thư không thể chữa trị.
Isobe luôn tin rằng, theo trình tự tự nhiên của số mệnh, ông sẽ trước vợ. Nhưng ông không ngờ rằng vợ sẽ phải đối mặt với cuộc sống sau khi ông ra đi. Vì không có con, hai vợ chồng đã nhận nuôi một bé gái, nhưng mọi thứ đều không suôn sẻ vì bé không hề thích ông bà. Nguyên nhân là tính cách của ông ít nói, ông xem việc vợ luôn có mặt trong nhà là điều hiển nhiên và nếu không có sự kiện gì xảy ra, ông cũng không muốn nói chuyện với bà. Trong lời nói của mình tại một buổi tiệc, ông Isobe đã mô tả người vợ lý tưởng như là không khí, nếu thiếu đi sẽ không thể sống, nhưng cũng im lặng và vô hình. Chỉ sau khi nhận tin tức xấu từ bác sĩ, ông mới thực sự muốn trò chuyện với người vợ đang nằm trên giường bệnh.
“Sự thật không dám nói
Bất ngờ:
Người vợ hiền thê sống qua bao ngày?”
“Trên đôi bàn tay nhỏ bé của cô ấy
Xanh lè mạch máu
Chảy…
Rối ren.”
Isobe đã ghi lại những dòng tạp kỹ như thế vào quyển sổ tay dù trước đây ông cho rằng bày tỏ tình cảm bằng lời nói hoặc viết cho người khác là một hành động đáng trách. Nhưng có lẽ không còn gì để xấu hổ, để ngượng ngùng khi người vợ đã đi cùng ông hơn ba mươi năm sắp phải xa rời mãi mãi.
“Em… biết chắc… em sẽ được sống lại ở một nơi nào đó trên thế giới này. Hãy nhớ đi kiếm em… tìm thấy em… Hứa đi! Mình hứa đi!”
Người vợ im lặng suốt bao năm dốc hết tâm lực thốt ra ước vọng cuối cùng của mình trước khi rời bỏ, Isobe cảm thấy như đang sống trong một cơn ác mộng. Ông sống trong cảm giác cô đơn của một người đàn ông mất vợ và coi điều đó như một bí mật quan trọng, một nhiệm vụ trong phần cuối cuộc đời.
Trường hợp Mitsuko
Naruse Mitsuko là một tình nguyện viên tại bệnh viện, đã chăm sóc cho vợ ông Isobe trong những ngày cuối đời. Khi còn học đại học chuyên ngành văn học Pháp, cô được bạn bè gọi là “Moria”. Moria là nhân vật chính trong một cuốn tiểu thuyết, cô quyến rũ chàng trai tên Joseph để thể hiện sự phong trần và kết quả là bị anh ta giết chết.
“Mitsuko thích làm những điều đột phá đầy mạnh mẽ ở tuổi trẻ. Do cảm thấy tự ti về việc lớn lên ở tỉnh nhỏ và dựa vào sự ủng hộ của cha mẹ, cô thuê một căn hộ xa hoa hơn nhiều so với sinh viên bình thường. Cô đi chơi với bạn bè, uống Cognac, loại rượu mà sinh viên không đủ tiền để mua, và lái chiếc xe hơi thể thao náo nhiệt.”
Tuy có vẻ ngoài như vậy, nhưng Mitsuko mang trong lòng một tâm hồn trống rỗng. Mỗi khi được khen ngợi về độ mạnh mẽ của mình hoặc chiếc xe sang trọng, Mitsuko lại cảm thấy trong lòng một sự phẫn nộ và cô đơn khó tả mà chính cô cũng không thể hiểu rõ.
Đám bạn chế nhạo Mitsuko về Ootsu - một chàng sinh viên với dáng vẻ hơi béo, mặc áo khoác cổ cứng kiểu quê mùa. Mỗi ngày sau giờ học, Ootsu đều đi đến nhà thờ phía sau trường đại học để cầu nguyện. Trong khi đó, sinh viên Nhật không ưa những người theo đạo Kitô từ phương Tây.
“Một chàng trai hiền lành lại đến nơi này để cầu nguyện, nghe như muốn nôn kinh. - Mitsuko phát biểu với từng chữ như thể nôn ra.”
Mitsuko gặp Ootsu và yêu cầu anh ngừng việc đến nhà thờ hàng ngày, hứa sẽ hẹn hò nếu anh làm. Cô và bạn bè ép Ootsu đến quán rượu, buộc anh phải chọn giữa uống hoặc từ bỏ đức tin của mình. Nhìn chàng trai ngây thơ uống hết một ly sau một ly khác, Mitsuko không thể không nhớ đến những cảnh quan trọng trong thời kỳ bắt buộc những người Kitô hữu phải giẫm đạp lên hình ảnh của Chúa hay Đức Mẹ.
Con chiên ngoan ngoãn Ootsu dễ say, không mất nhiều thời gian để anh trở nên say sưa. Nhưng anh không hề suy nghĩ về việc từ bỏ tín ngưỡng. Mitsuko nhận ra rằng gã đàn ông ngớ ngẩn này là loại người mà cô chưa từng gặp trước đó.
Việc Ootsu bị cuốn vào tình yêu với Mitsuko không khó khăn. Anh chàng từ bỏ việc đến nhà thờ sau giờ học, điều mà trước đây anh không bao giờ bỏ lỡ, để đến phòng trọ của Mitsuko. Cá đã cắn câu, Ootsu thật sự mê mải trong trò chơi tình ái mà Mitsuko đang chơi, thậm chí còn nghĩ đến việc sống cùng nhau.
Quan điểm của Mitsuko về tôn giáo giống như lời của Karl Marx: “Tôn giáo là viên thuốc phiện của dân chúng.” Sự chiến thắng thúc đẩy cô đến nhà thờ, nói chuyện với người đàn ông gầy gò treo trên cây thập tự giá.
“Ông đã thất bại. Tôi đã chiến thắng. Anh chàng đó đã rời bỏ ông. Anh ấy đã bỏ ông để đến với tôi.”
Một ngày nọ, Mitsuko quyết tâm và đuổi Ootsu đi như cách bỏ đi một tấm áo rách. Sau này, họ gặp lại nhau trong chuyến trăng mật của Mitsuko và chồng mới cưới, trong khi Ootsu đang theo học để trở thành linh mục.
“Người đàn ông yếu đuối, nhưng đã tìm lại sức mạnh từ đâu? Tuy nhiên, tôi vẫn là người chiến thắng, vì Chúa không quan tâm đến việc tái sử dụng một người đàn ông mà tôi đã từ bỏ.”
Từ khi đó, Mitsuko luôn nghi ngờ và suy tư về ý nghĩa của cuộc sống. Cô quyết định kết thúc một cuộc hôn nhân vừa mới bắt đầu và tham gia chuyến đi đến Ấn Độ để tìm kiếm một điều gì đó không biết tên gọi.
Trường hợp của ông Numata
“Trên máy bay đến Delhi, họ bắt đầu bán hàng miễn thuế. Các tiếp viên phục vụ, từ trước đến giờ luôn lịch sự và trang trọng, bất ngờ trở thành những nhân viên bán hàng xinh đẹp, bắt đầu trưng bày hàng rượu và thuốc lá. Ông Numata muốn mua một chai nước hoa cho vợ nhưng không biết loại nào, vì vậy ông hỏi ông Isobe ngồi bên cạnh.”
Numata là một nhà văn chuyên viết truyện ngắn. Khi còn nhỏ, anh sống ở Đại Liên, Mãn Châu (lúc đó là thuộc địa của Nhật). Mẹ của Numata thuê một người Hoa tên Lý làm người giúp việc, hàng ngày làm việc nhà và đốt than vào lò sưởi. Một ngày, khi đang trên đường về nhà từ trường, Numata nhặt được một con chó bị lạc nhưng bố mẹ không cho nuôi, vì vậy Lý, người giúp việc, giúp cậu ẩn náu con chó trong kho than. Sau nửa năm, Lý bị sa thải vì để mất nửa kho than. Cho đến bây giờ, Numata vẫn nhớ nụ cười của Lý vào ngày cậu phải rời nhà.
Sau vài năm, mối quan hệ của bố mẹ Numata trở nên rạn nứt. Buổi tối, Numata không thích phải ở nhà nghe ba mẹ cãi nhau. Chỉ có Mực - con chó mà Numata đã nhặt về trước đó, là người bạn đồng hành duy nhất của cậu. Mẹ Numata quyết định đưa Mực trở lại Nhật Bản. Ngày ra đi, ông bố cũng không buồn rời phòng, chỉ có Mực chạy theo chiếc xe một cách vội vã. Sau một thời gian, nó kiệt sức và buông xuôi, đứng nhìn Numata biến mất. Cho đến khi trưởng thành, Numata không bao giờ quên ánh mắt của Mực vào ngày đó.
Khi trở thành một nhà văn viết truyện ngắn, Numata nuôi một con chim tên Pierrot. Mỗi tối, Pierrot nghe Numata kể chuyện, giống như Mực đã từng làm. Numata cảm thấy Pierrot cũng như là người bạn đồng hành của mình.
Rồi bất ngờ, ông phát hiện ra mình mắc bệnh lao và buộc phải thả Pierrot về tự do. Sau nhiều ca phẫu thuật thất bại, ông sống như chết trên giường bệnh. Vợ ông mang về cho ông một con nhồng. Một cuộc phẫu thuật cuối cùng, lần này lại thành công và được coi là một kỳ tích. Tuy nhiên, vì lo lắng cho chồng, vợ ông quên con nhồng trên sân thượng bệnh viện và nó đã chết trước khi bà nhớ ra.
“Có lẽ con chim này đã hi sinh vì tôi chăng?”
Chính vì suy nghĩ đó, Numata đến với chuyến đi, mang theo lòng ham muốn khám phá vườn thú tự nhiên hơn là thăm viếng các di tích Phật giáo như những người khác. Ở Ấn Độ, khắp nơi đều có khỉ, gấu, hổ và thậm chí cả rắn hổ mang.
Trường hợp của ông Kiguchi
Kiguchi, một người đàn ông già, từ chối ăn thịt trong suất ăn trên máy bay, là một cựu chiến binh từng tham gia vào chiến dịch trong rừng già Miến Điện.
Những cuộc chạy trốn, những trận mưa rào, cảm giác đói khát và tuyệt vọng luôn đi cùng Kiguchi như những mảnh vỡ không thể tách rời, bất kể nơi nào ông đến. Chuyến đi này cũng không ngoại lệ. Kiguchi muốn đến Ấn Độ để tìm kiếm sự thanh thản trong tâm hồn, đồng thời cầu nguyện cho những chiến binh đã khuất trong chiến tranh xưa.
Trong tâm trạng đau khổ của mình, Kiguchi đối mặt với những nỗi sợ hãi:
“Mưa đổ dồn trên rừng sâu. Cuộc rút lui giữa dòng mưa. Sốt rét ập đến. Đói. Tuyệt vọng. Lúc đó, chúng tôi như những hồn ma lang thang vào cõi chết.”
Trên hành trình rút lui, đơn vị của Kiguchi phải vượt qua rặng Pegu, mọi lính đều chịu đựng sự thiếu thốn thức ăn, hơn nữa hơn một nửa số quân bị sốt rét. Đồ ăn chỉ là trái quéo từ rừng. Hậu quả là nhiều người bị đau bụng, tiêu chảy liên tục, mùi hôi phân bốc lên khắp nơi. Một số người gục ngã trên phân, một số khác rên rỉ mệt mỏi, mong muốn được chết trong rừng.
“Không mất bao lâu, tiếng kêu xiết của những kẻ đau khổ vang lên khắp nơi dưới bóng rừng.”
Trên con đường rút lui, số người sống sót ít hơn cả những kẻ đi như lũ ma trong rừng. Đôi khi tiếng nổ của lựu đạn vang lên, những người kiệt sức không thể tiếp tục bước đi lại dùng vũ khí đó để kết thúc cuộc đời của mình. Kiguchi và đồng đội thân thiết Tsukada đã trải qua địa ngục tàn khốc đó, sau này họ gọi con đường hành quân xưa là “Con Đường Tử Thần”. Họ chứng kiến những xác binh sĩ hai bên đường, bị côn trùng đâm vào mũi và miệng. Một số thân thể còn sống vẫn van xin người khác giết họ. Kiguchi cũng mắc sốt rét, nghĩ rằng mình bị bỏ lại và sẽ chết trong rừng.
“Khi nhớ lại sau này, thật kỳ lạ là trong hoàn cảnh đó, tôi cảm thấy thanh thản, không hận, không giận vì việc mỗi người tự bỏ rơi người kia là điều bình thường.”
May mắn thay, Tsukada vẫn ở lại với Kiguchi và họ tìm thấy một phần thịt mùi lạ. Kiguchi nôn mửa ngay trước khi kịp ăn, còn Tsukada cố nuốt để có cơ hội thoát khỏi rừng.
Mười năm sau, họ gặp lại, Tsukada trở thành một kẻ nghiện rượu và nội tạng bị tổn thương do xơ gan. Khi biết mình sắp chết, Tsukada mới thú nhận rằng lý do ông trở thành một kẻ nghiện rượu là vì muốn trốn thoát khỏi ký ức về “Con Đường Tử Thần”. Phần thịt cứu mạng ông tìm thấy lúc đó là thịt của một lính tên Minamigawa. Không phải thịt của một con thằn lằn như Tsukada đã nói với Kiguchi.
Hành trình tìm kiếm ý nghĩa cuộc sống
Có vẻ như năm chương đầu tiên là một thử thách với những người không thích sự chậm rãi. Mọi thứ diễn ra có phần làm người ta cảm thấy bực mình, giống như không khí trong một buổi trà kiểu Nhật. Nhưng nếu đủ kiên nhẫn, chắc chắn sẽ không muốn kết thúc cuộc hành trình hấp dẫn này. Giống như sự gặp gỡ giữa một người Nhật và một người Ấn.
Chuyến đi diễn ra vào năm 1993, hướng dẫn viên của đoàn từng du học ở Ấn Độ, tên là Enami. Ở Ấn Độ, mọi thứ đều ồn ào, tạp nham và bẩn thỉu: các tài xế taxi lì lợm chèo kéo khách ở sân bay Allahabad rồi nhổ nước bọt khinh bỉ trước khi rời đi vì biết có xe đoàn đang chờ sẵn; thay vì các tài xế, là đám trẻ con cố gắng xin tiền từ du khách; chiếc xe buýt cũ rích với ghế ngồi rách nát, cửa xe phải dùng dây để cột lại,...
Mỗi hành khách mang một vẻ đặc biệt, mỗi người mang trong lòng mình một suy nghĩ riêng: Mitsuko chìm đắm trong suy tư tăm tối; ông Isobe lúc nào cũng nghe tiếng thì thầm của vợ bên tai; ông Kiguchi lặng lẽ suy tư về sự chết chóc trong rừng ở Miến Điện giả; ông Numata biết ơn các loài vật đã đi cùng với mình.
Có người biết rõ mục đích khi tham gia chuyến đi này, cũng có người hoàn toàn mơ hồ về điều mình đang tìm kiếm. Thậm chí, kết thúc cuốn sách cũng là một dấu chấm lửng. Cuối cùng, họ có tìm được câu trả lời cho mình không? Hay vẫn mê mải, mơ mơ màng màng như dòng nước đục mịn mà các tín đồ tắm gội, giặt giũ hàng ngày.
Endo Shusaku đưa các nhân vật đến một thành phố được nhà văn Mark Twain mô tả như xưa hơn lịch sử, cổ hơn truyền thống, cũ hơn huyền thoại và tuổi thọ gấp đôi tất cả những thứ kể trên - Varanasi. Hướng dẫn viên Enami giới thiệu đó là thành phố mà người ta đến để chết, nơi mà trong mắt các du khách từ Nhật Bản, mọi thứ đều rất sôi động và ô nhiễm.
“Ngay cả khi bạn ngồi trong xe, bạn cũng có thể cảm nhận được mùi của phố xá: mùi mồ hôi, mùi cống rãnh và mùi thức ăn từ các quán ăn; màu sắc rực rỡ; những hũ chén đồng bóng loáng trong các cửa hàng tối om.”
Chuyến đi không đạt được mục đích, không ghé thăm bất kỳ địa điểm Phật giáo nào, chỉ có vài đền thờ và hang động với các tượng thần. Bà Thủ tướng Indira Gandhi bị ám sát - sự kiện này đã khiến thế giới dậy sóng, và du khách chỉ có thể chờ đợi trong khách sạn ở Varanasi mà không thể rời đi. Họ không có gì để làm ngoài việc ngắm sông Hằng.
Trước khi kết thúc chuyến đi, người hướng dẫn xin lỗi nhóm du khách vì họ đã phải làm phiền để đến Ấn Độ mà không thăm thú một Phật tích nào cả.
“Đừng lo, bạn ạ. Thay vì đi tham quan các Phật điện, tôi đã được chiêm ngưỡng dòng sông.”
Mitsuko không chần chừ trả lời như thế. Họ, những người đã trải qua nhiều khó khăn trong cuộc sống, cuối cùng cũng chia sẻ những gánh nặng tâm hồn với nhau. Sông Hằng linh thiêng dùng sức mạnh của mình để làm sạch tâm hồn, làm dịu đi sự ồn ào xô bồ của các khu chợ, đám đông người và động vật. Niềm an ủi mạnh mẽ từ dòng sông đã làm sạch tâm hồn của những người nước ngoài, những người không cùng tôn giáo, giống như cách mà hàng ngày dòng sông đang làm với hàng ngàn người đàn ông và phụ nữ trầm mình trong dòng nước như màu trà sữa, đưa nước lên đầu, ngậm nước trong miệng và chắp tay cầu nguyện.
Khi đọc hơn ba trăm trang sách, không biết liệu những nhân vật đã tìm được câu trả lời cho mình hay không, chỉ biết rằng họ vẫn phải tiếp tục với gánh nặng cuộc đời trên đôi vai của họ.