“
Thuyền lướt trên dòng sông rộng hàng ngàn thước, nhìn về hai bên bờ, rừng trổ bông cao vút như những tường thành vô hạn. Cây đước mọc dài dọc bờ, từng lớp lá rụng xuống, những đám cây xanh mướt, xanh rêu, xanh lục... trải dài giữa dòng sông, phủ lên nhau tạo nên bức tranh màu xanh tươi, màu xanh rêu, màu xanh ngọc... phảng phất trong sương mù và khói sóng buổi sáng. Chợ Năm Căn nằm sát bên bờ sông, nhộn nhịp, đông đúc và náo nhiệt.”“ - Mọi người đều biết chúng ta ở đây, không ai để lộ điểm lịch trình của họ! Vậy thì... khu rừng này chẳng thể giữ bí mật được những lều này... Chú Huỳnh Tấn nhếch môi mỉm cười...
- Chỉ cần tránh mắt kẻ thù thôi! Chúng ta không thể giấu mình trước cộng đồng!
- Đúng vậy!
- Thầy Bảy gật gù đồng ý.
- Mọi người đều biết hoặc có thể biết rằng có du kích ở đây, nhưng kẻ thù thì không hề hay biết... Vì vậy... chỉ có nhân dân rừng mới đảm bảo được sự bí mật của chúng ta thôi!”.
Hai đoạn trích ngắn trên đã một phần tái hiện được những nét chính mà tác giả Đoàn Giỏi muốn truyền đạt trong tác phẩm của mình. Thứ nhất, đó chính là vẻ đẹp chân thực, gần gũi của miền sông nước phương Nam được mô tả bằng ngôn từ gần gũi không kém của Đoàn Giỏi. Và thứ hai là vẻ đẹp của con người ở đây. Những người dân chân phương ấy, từ việc lo toan cho cuộc sống hằng ngày đã có sự tỉnh táo để bảo vệ quê hương khỏi bọn cướp và bán nước. Một biểu tượng điển hình trong số đó là cậu bé An, một đứa trẻ lạc lối được vợ chồng ông Hai nhận nuôi, qua quá trình trưởng thành của An, chúng ta thấy được từ một cậu bé lạc lối đến một chiến sĩ cầm súng bảo vệ đất nước. Tất cả điều đó, đều được tái hiện trong tác phẩm “Đất rừng phương Nam” của tác giả Đoàn Giỏi.
Về tác giả:
Đoàn Giỏi (17/05/1925 - 2/4/1989), là một nhà văn thuộc Hội Nhà văn Việt Nam từ năm 1957. Trong quá trình sáng tác văn của mình, ông sử dụng nhiều bút danh khác nhau như: Nguyễn Hoài, Nguyễn Phú Lễ, Huyền Tư.
Ông sinh ra tại tỉnh Mỹ Tho (nay là Tiền Giang). Ông là con của một gia đình địa chủ lớn, sở hữu hàng trăm mẫu ruộng màu mỡ ven sông Tiền. Khi cuộc kháng chiến bùng nổ, gia đình ông đã tự nguyện hiến toàn bộ tài sản để ủng hộ cuộc chiến. Ông từng theo học tại Trường Mỹ thuật Gia Định (1939 - 1940).
Trong những năm kháng chiến chống thực dân Pháp, Đoàn Giỏi tham gia hoạt động an ninh, sau đó làm công việc về thông tin, văn hóa. Từ năm 1949 đến năm 1954, ông làm việc tại Chi hội Văn hóa Nam Bộ, viết bài cho tạp chí Lá Lúa và tạp chí Văn học Miền Nam.
Sau năm 1954, ông chuyển xuống miền Bắc, đến năm 1955 ông bắt đầu sáng tác và biên tập sách báo, làm việc tại Đài Tiếng nói Việt Nam và Hội Văn học Việt Nam. Ông là thành viên của Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam các kỳ hội I, II, III. Ông cũng là Đảng viên của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Nhà văn Anh Đức nhớ rất rõ ngày ông mười bốn tuổi gặp Đoàn Giỏi, một thanh niên trẻ hơn ông chục tuổi:
“Tôi vừa tốt nghiệp trường trung học chiến đấu, bắt đầu làm việc tại Cục Thông tin tỉnh Rạch Giá, lúc đó anh Đoàn Giỏi từ Mỹ Tho về làm Phó trưởng Cục. Anh ta có vẻ ngoài mạnh mẽ, luôn đeo ống hút thuốc trên môi.”
Mặc dù bề ngoại lực lưỡng nhưng Đoàn Giỏi có một tâm hồn nhạy cảm, thuần khiết và quyết đoán.
Không chỉ là một người hào hiệp, mạnh mẽ và rộng lượng, ông còn là một nhà văn tài năng và siêng năng. Nhà văn Anh Đức đã ca ngợi về Đoàn Giỏi như sau:
“Thực sự, tôi chưa từng thấy ở nước ta có một nhà văn nào như anh, đam mê yêu thiên nhiên và động vật đến mức có cả một kho tư liệu ghi chép cẩn thận, đủ để viết ra những câu chuyện như thế này. Có lúc anh cả giờ đồng hồ đắm chìm trong việc kể cho tôi nghe về cuộc sống của loài hổ, loài cá sấu, loài tê giác và loài cá. Một lần, tôi bày tỏ sự hoài nghi về một chi tiết trong tập Chuyện lạ về cá, trong đó anh mô tả một máy bay của Đồng minh bị Nhật bắn cháy, phi công nhảy dù rơi xuống biển Hải Phòng thì cá mập dưới đáy biển tổ chức một cuộc tiếp đón viên phi công giống như những nhánh nan của chiếc xe đạp. Anh vẫy tay và hét lên: “Mày không tin à? Tao đảm bảo trăm phần trăm đúng như tao đã viết. Mày ngồi đây đợi, để tao lấy tài liệu cho mày xem!”
Tác phẩm đầu tiên của ông là Nhớ cố hương năm 1943 đã mở đầu cho sự nghiệp văn chương của ông. Nhà văn Đoàn Giỏi tập trung vào sự nghiệp của mình sau khi chuyển ra Miền Bắc. Phần lớn các tác phẩm sau của ông chủ yếu viết về cuộc sống con người và vẻ đẹp tự nhiên của núi rừng sông nước Phương Nam.
Bằng niềm tự hào về một vùng đất phong phú, tràn đầy tình yêu thương và kỷ niệm, cũng như sự kính trọng đối với những con người chất phác, ý chí mạnh mẽ,... Con người của Phương Nam trong quá trình xây dựng cuộc sống, trong việc chống lại kẻ thù ngoại xâm để giải phóng quê hương,... đó chính là những yếu tố giúp nhà văn Đoàn Giỏi tìm ra cảm hứng cho những tác phẩm của mình.
Với bút pháp tài tình của mình, nhà văn Đoàn Giỏi đã biến con người, đất rừng Phương Nam trở thành những điều quen thuộc với độc giả nhỏ tuổi. Những trang sách của ông chứa đựng hơi thở của sông nước, rừng rậm, thiên nhiên và con người của miền Nam.
Về tác phẩm:
Tháng 2 năm 1957, Đoàn Giỏi nhận được yêu cầu từ Hội văn nghệ Việt Nam viết một tác phẩm về thiếu nhi miền Nam, trong vòng 4 tháng. Nhưng cho đến tháng 5, khi nhà văn Nguyễn Huy Tưởng nhắc lại yêu cầu đó và nhấn mạnh việc ra đời của Nhà xuất bản Kim Đồng, Đoàn Giỏi mới bắt đầu sáng tác. Chỉ trong một tháng, ông đã hoàn thành tác phẩm đúng theo kế hoạch. Tác phẩm được xuất bản ngay khi Nhà xuất bản Kim Đồng ra đời và đã gặt hái thành công vượt xa mong đợi. Đất rừng phương Nam là một tác phẩm thiếu nhi rất nổi tiếng của ông và đã đạt được thành công lớn. Truyện đã được dịch ra nhiều ngôn ngữ, được chuyển thể thành phim và xuất bản trong Tủ Sách Vàng của Nhà xuất bản Kim Đồng.
Cuốn tiểu thuyết 'Đất rừng phương Nam' kể về hành trình phiêu bạt của cậu bé An trong miền Tây Nam Bộ nước ta vào năm 1945, khi thực dân Pháp quay trở lại xâm chiếm.
Về phần nội dung:
Mỗi khung cảnh trong cuộc đời của An được tả rất chi tiết và sâu sắc bởi tác giả, từ cuộc sống thành thị bình yên cho đến những ngày lưu lạc đầy khắc nghiệt.
Những người dân đất Nam luôn thể hiện sự mạnh mẽ và quyết đoán khi đối diện với nguy hiểm, dám đứng lên bảo vệ đất nước bằng cả sinh mạng của mình.
Tình hình chiến tranh làm gia đình An phải dời đến nơi khác, nhưng cũng chính từ đó mà An trưởng thành hơn, nhận ra ý nghĩa của cách mạng và quyết tâm đứng lên bảo vệ quê hương.
Cuộc sống của An là hành trình trưởng thành đầy ý nghĩa và tinh thần, từ cuộc sống bình dị cho đến quyết tâm đứng lên bảo vệ đất nước.
Câu chuyện đưa chúng ta qua những trải nghiệm đầy thú vị từ việc bắt rắn ban đêm đến việc lấy mật ong rừng và trêu cọp giữa đêm khuya, tất cả từ góc nhìn của một cậu bé, tạo nên một khung cảnh lạc quan và đầy hứng khởi.
Tóm lại, câu chuyện về An đã chạm vào trái tim của độc giả thông qua ba cảm xúc:
Cảm giác thứ nhất là sự kỳ diệu của thiên nhiên miền sông nước, vừa hoang sơ vừa đẹp đẽ, với sức sống mạnh mẽ hơn bất kỳ loại vũ khí nào.
Cảm xúc thứ hai là nỗi đau của chiến tranh, với những cảnh tang thương và nỗi buồn do giặc gây ra, nhưng cũng đầy kiên cường và bất khuất của nhân dân.
Cảm xúc thứ ba là sự xúc động và ngưỡng mộ trước tinh thần yêu nước và sức sống của những người dân nơi đây, sẵn sàng hy sinh cho đất nước dù trong hoàn cảnh đói khó.
Điều đáng tiếc nhất có lẽ là An chưa gặp lại cha mẹ của mình, nhưng đây cũng là một biểu tượng cho nỗi đau của sự chia ly trong chiến tranh.
Lời kết:
Đoàn Giỏi đã thể hiện một cách tài tình bức tranh về sông nước miền Nam, nơi sự sống phồn thịnh và vẻ đẹp tự nhiên sống động. Nhưng hơn hết, là sức mạnh và lòng dũng cảm của những con người chân chất, đậm đà nơi này.
Tóm lại, đây là một tác phẩm xuất sắc không chỉ dành cho trẻ em mà còn dành cho mọi người, mang đến những cảm xúc sâu sắc về vẻ đẹp của thiên nhiên và lòng yêu nước.
Hình ảnh: Yến Phương