Tuổi thơ, giai đoạn đẹp nhất, mỗi người đều trải qua để nhớ lại và suy ngẫm khi trưởng thành để nhận ra bản thân đã qua khờ dại. Đó là khoảng thời gian thanh xuân, trong sáng nhất, khi chúng ta cho rằng mình là trung tâm của thế giới nhỏ xíu xung quanh. Nếu bạn đang cảm thấy mệt mỏi với những gánh nặng của cuộc sống, với vòng xoáy của thời đại, và muốn tìm kiếm một góc nhỏ yên bình để hồi tưởng, làm mới kí ức tuổi thơ, xin hãy đọc và cảm nhận cuốn sách này. Mỗi con người có một quá trình tuổi thơ riêng, tuổi thơ của Duy Khánh cũng vậy, nó mang mùi hương của nghèo khó, mùi vị của đói khát, nhưng khi đọc những trang sách kỷ niệm ấy, ta vẫn thấu hiểu được tình cảm về quê hương, về con người, về cảnh vật; độc giả như được lắng đọng trong ánh nắng, trong làn gió, và trải qua những tháng ngày khắc nghiệt tại miền quê của tác giả.
Sinh ra không trong những năm tháng hoa lệ của dân tộc, tôi bước vào thế giới này khi đất nước đang bước vào thời kỳ hội nhập và đổi mới. Vì thế, hình ảnh tuổi thơ của tác giả gắn liền với vùng quê trước những năm 45 thật lạ lẫm - dường như chỉ tồn tại trong một thế giới khác. Tuy nhiên, điều đó không làm giảm bớt sự khao khát khám phá và đồng cảm của tôi với thế giới mà nhà văn đã tái hiện. Có lẽ sự đồng cảm đó xuất phát từ cách tác giả miêu tả núi non, sông nước, con người, động vật, vật dụng,... Tất cả tạo nên bức tranh về làng quê yên bình, không có gì có thể lẫn vào.
Một vài thông tin về tác giả Duy Khánh và bối cảnh của 'Tuổi Thơ Trong Lặng Im'
Theo phần giới thiệu, cuốn sách là một món quà dành cho ba đứa con của tác giả, vì vậy những gì được viết trong cuốn sách là những trải nghiệm thực sự nhất, những hình ảnh về cảnh vật, con người đã hình thành một người cha, một chiến sĩ cách mạng như lúc ấy. Cuốn sách được viết với tất cả tình yêu thương, sự trân trọng và tiếc nuối về quá khứ. Trong tâm trí của tôi, cuốn sách luôn hiện lên với hình dáng mờ vàng, nhuốm màu bởi thời gian.
Tuổi thơ trong tập sách này được tính từ khi nào? Tính theo cách của tác giả: từ khi bắt đầu nhận thức cho đến khi đạt tuổi mười lăm. Tuổi mười lăm chính bằng với tuổi của Khánh
Viết về bối cảnh làng quê trước năm 45, có thể diễn tả tuổi thơ im lặng như một thước phim nhựa nhưng được thu một cách toàn cảnh từ trên cao. Không kể lại những câu chuyện có lớp lang, không đi theo bố cục không gian, không xuôi theo dòng thời gian; Tuổi thơ im lặng viết về những ngày Duy Khán nhận thức cho đến tuổi mười lăm, nhưng không đi theo công thức chung. Không chắc có thể gọi đây là những câu chuyện hay không, nhưng cuốn sách là tập hợp những gì đẹp nhất, những ấn tượng mạnh nhất của tác giả về những người, địa danh thậm chí những cảnh sắc, đồ vật, con vật đã từng tồn tại và là một phần tuổi thơ của nhà văn. Những cảnh vật đôi khi là một tổng thể lớn lao, hùng vĩ như Thế đất: “Đứng ở chỏm núi cao nhất nhìn xuống: núi hoàn toàn là một con rồng. Gọi chung là núi Dạm. Làng tôi ở giữa núi nên gọi là Sơn Trung hay Dạm Giữa. Tên “Dạm” hình như thuộc về tình yêu. Quay mặt về hướng đông thị xã Lãm Dương bám vào các “chân rồng” bên trái, thoai thoải.” Nhiều khi lại đan xen bằng những thứ nhỏ bé, tưởng chừng chẳng ai thèm nhớ, chẳng ai thèm quan tâm như trong truyện những đồ dùng biết nói: nó là cái chày, cái cối, cái chăn dạ. Tất cả chúng được miêu tả thật kỹ lưỡng, thật chân thực cứ như vẫn tồn tại bên cạnh tác giả, chưa bao giờ biến mất, chưa bao giờ mục ruỗng.
Hồi ức về những năm tháng trước cách mạng là những năm tháng đau đớn nhưng không kém phần hào hùng của dân tộc, vì thế không lạ khi truyện viết về những đói nghèo, thiếu thốn, bệnh tật, những cảm cảnh mà có lẽ thời nay không ai có thể tưởng được. Nhưng truyện không đi sâu vào những chi tiết ấy, hoặc nói một cách khác nó khiến người đọc không tập trung vào những đau thương đã trở nên quen thuộc trong các tác phẩm trước cách mạng. Ngược lại người đọc bị thu hút, say mê bởi những cảnh sắc làng quê miền Bắc trước cách mạng. Cái cách mà tác giả miêu tả thật đơn giản, mộc mạc nhưng chạm đến trái tim của bao thế hệ, Duy Khán có cài tài miêu tả tài tình khiến cho độc giả không thể thoát ra khỏi những câu chuyện đời tưởng chừng đã trở nên quen thuộc nhàm chán, những thứ tưởng chừng chẳng có gì để viết để nhớ, thì lại được ông khơi thông, truyền vào cái hồn khiến nó trở nên độc và lạ, hay là do chúng ta đã sống trong xã hội xô bồ quá lâu nên cần chút gì đó để nhớ, hoài niệm về cuộc sống thuở xưa.
Những con người xuất hiện trong Tuổi thơ im lặng, đến và đi thoáng qua có những người hiện lên xinh đẹp tinh nguyên như trong ký ức: “anh Bao chị Bạch trong đám đu ngày hội xuân, cô Phan hiện lên da trắng hồng, hai hàm răng đều đặn, cô nhuộm bao giờ mà đen nhánh. Khi cô cười cái môi thêm đỏ”: chị Ngoãn là cô gái "xinh nhất nhì cái làng Vân này”, có những người thì lẳng lặng đi, lẳng lặng về, đôi khi chỉ lướt qua cuộc đời tác giả nhưng đã trở thành một phần ki ức không quên: bà Chè người gầy, dáng đi liêu xiêu, hai bàn chân toẽ ra như chân vịt, bà Sứt, với miếng môi bị sứt, giọng nói phều phào. Không ai là hoàn toàn xấu, không ai toàn thiện. Họ hiện lên với những câu chuyện riêng đời mình, đâu đó trong những áng văn tươi đẹp vẫn xuất hiện những con người chìm nổi, bấu víu vào cuộc sống. Khi đọc chương truyện Những nấm mộ bên đường ta thấy xúc động cho những kiếp người tha hương, chịu nhân tình ấm lạnh. Làm sao Duy Khán có thể quan sát và hồi tưởng về những con người tưởng chừng như bình thường mà đâu đâu cũng bắt gặp như thế? Người nhà là chủ thể xuất hiện thường trực và chiếm một phần quan trọng trong những câu chuyện của Duy Khán. Xuyên suốt trong hành trình ký ức của nhà văn là tình cảm mãnh liệt, mạnh mẽ, thứ tình cảm ấy không chỉ thực hiện qua lời nói mà còn được miêu tả thông qua dáng hình bóng ảnh, ai cũng hiện lên trong cái đói cái nghèo nhưng không che dấu nổi tình cảm của những người thân trong gia đình. Không phải những lời họ đã nói cho nhau mà là những điều họ đã làm vì nhau:
Những ngón chân của bố khum khum, lúc nào cũng như bám vào đất để khỏi trơn ngã.
Người ta nói “đấy là bàn chân vất vả”. Gan bàn chân bao giờ cũng xám xịt và lỗ rỗ, bao giờ cũng khuyết một miếng, không đầy đặn như gan bàn chân người khác. Mu bàn chân mốc trắng, bong da từng bãi, lại có nốt lấm tấm. Đêm nào bố cũng ngâm nước nóng hoà muối, gãi lấy gãi để rồi xỏ vào đôi guốc mộc. Khi ngủ bố rên, rên vì đau mình, nhưng cũng rên vì nhức chân. Rượu tê thấp không tài nào xoa bóp khỏi. Bố đi chân đất. Bố đi ngang dọc đông tây đâu đâu con không hiểu. Con chỉ thấy ngày nào bố cũng ngâm chân xuống nước xuống bùn để câu quăng. Bố tất bật đi từ khi sương còn đẫm ngọn cây ngọn cỏ. Khi bố về cũng là lúc cây cỏ đẫm sương đêm.
Đôi vai của mẹ thành chai từ bao giờ con không biết. Trên đôi vai ấy ai để chiếc bánh dày vào. Bánh dày màu nâu sẫm, có lúc nứt ra. Cái năm mẹ leo lên núi gánh “đá trăm” xuống thuyền cho người ta chở lên tỉnh, ấy là cái năm vai mẹ nứt to nhất, mất một lần da, rớm máu, dính cả vào đòn gánh. Con hỏi mẹ, mẹ bảo: “Không đau, nó ê ra rồi”.
Đọc những dòng miêu tả kia, tôi chỉ cảm thấy xúc động, buồn bã, bởi mỗi người đều có những người cha, người mẹ hi sinh tất cả để bảo vệ cho chúng ta. Tình cảm của Duy Khánh dành cho gia đình hiện ra qua cách ông miêu tả: bàn chân của cha, vai của mẹ, và cả những vết thương của anh Thả. Còn hình ảnh của người bà, ông miêu tả bà như một bóng dáng hiền lành, luôn chịu đựng những khó khăn và gánh nặng của cuộc sống. Mỗi lời nói của bà là một bài học quý giá, tạo nên kí ức tuổi thơ của tác giả.
Bà tôi không có học vấn gì nhiều, chỉ biết chữ mấp mô nhưng lại có lòng hiểu biết sâu rộng. Bà luôn im lặng, nhưng mỗi lời bà nói đều đúng và có ý nghĩa. Bà thường dạy tôi: 'Dạy con từ khi còn nhỏ, dạy chồng từ khi mới cưới.'
Gia đình, từ người bà đến người cha, người mẹ, anh em, là một phần không thể thiếu trong cuộc sống ở vùng quê miền Bắc. Duy Khánh trân trọng mối quan hệ này như một phần của cuộc sống, mỗi cá nhân, mỗi khoảnh khắc đều được ghi lại một cách tỉ mỉ qua từng trang sách.
Cùng với con người, thiên nhiên và cảnh vật cũng hiện ra như một bức tranh đã được thời gian vẽ nên. Cách tác giả miêu tả về núi non, về động vật, hoa cỏ, đều mượt mà như dòng sông uốn lượn, đôi khi dữ dội như một con thác, khiến người đọc không thể rời mắt.
Mùa hè đã đến, cây cối xanh mướt, cả làng tràn ngập mùi hương. Cây lan nở trắng khắp nơi, làm cho không gian trở nên thơ mộng. Ong vàng, ong mật náo nức trên hoa, tạo nên một bức tranh sống động của vùng quê.
Đôi khi, làng quê như bùng nổ, sôi động giữa những trận mưa giông, khiến trời đất như rung chuyển. Những sự kiện này tạo ra một cảm giác căng thẳng, làm nổi lên những nỗi lo của người dân. 'Tôi bất ngờ nhìn thấy hình ảnh thầy ở cửa rừng, mờ như một tượng điêu khắc. Bên kia làng, khói bốc lên. Tiếng súng nổ vang vọng. Tôi tiếp tục bước đi, để kịp thời điều trần. Đó là ngày 27 tháng 1, năm 1950...'
Cảm nhận cá nhân về Tuổi Thơ Im Lặng. Không màu mè, xa hoa, nhưng đó là những cảm nhận đầu tiên khi đọc những dòng của Duy Khánh, tác giả viết về làng quê và sử dụng ngôn từ chân chất của nơi đây. Điều làm nổi bật tác phẩm là cách tác giả mô tả làng Vân vẫn giữ nguyên vẻ đẹp của nó. Sử dụng ngôn từ hùng biện với nhiều hình ảnh tươi sáng, nhân hoá, so sánh. Làng Vân hiện lên như những con rồng, những thế lực đối lập, những con người đẹp và xấu. Sử dụng ngôn từ dân dã, thậm chí là ngôn từ thô tục, cùng với ca dao, tục ngữ, những cụm từ gần gũi, tạo nên phong cách riêng biệt của làng quê trong cuốn hồi ký.
Con gà ở nhà tao là con gà con ngoan, còn ở nhà mày nó trở thành con quạ đỏ mỏ. Nó tấn công tất cả, không phân biệt lớn bé. Không biết bà đứng ở đâu, nhưng chắc chắn là bà đứng giữa đường, bởi bà không phải là người rụt rè.
Trong thời đại hiện nay, nhiều người lần đầu tiên nghe những từ tục tĩu như vậy - nhưng đó lại là đặc trưng của cuộc sống xóm làng xưa.
Viết về cuộc sống vào những năm 1945, là những năm tháng khốc liệt nhất nhưng cũng là bước ngoặt của dân tộc. Trong bức tranh làng quê, mọi thứ hiện ra với sự đắng cay của quá khứ, nhưng không thể che lấp đi vẻ đẹp. Nhưng điều đó không làm mờ đi sự tàn nhẫn của đời sống nơi đây. Trong bức tranh sống động đó, tôi cảm nhận sự đau buồn sâu thẳm trong tuổi thơ của tác giả.
Tôi thích cách tác giả chuyển đổi phong cách viết của mình, từ cái nhìn toàn diện về làng quê đến sự tập trung vào những chi tiết nhỏ trong làng. Từ cảnh tĩnh tới cảnh động, từ con người tới động vật, tạo ra một bức tranh đầy màu sắc của làng quê. Mặc dù có những khía cạnh u tối, nhưng trong đó vẫn tỏa sáng ánh nắng hi vọng.
Tóm tắt bởi: Sơn Dương - MyBook