Nghe tên Những ngày thơ ấu chúng ta dễ dàng hình dung ra những hình ảnh vui vẻ, sống vô ưu vô lo của hay là những mối tình đầu ngây thơ non nớt. Nhưng không, Những ngày thơ ấu của nhà văn Nguyên Hồng là những hình ảnh một cậu bé phải sống trong hoàn cảnh cơ cực sau khi cha chết, mẹ phải tha hương cầu thực, sống trong sự cay nghiệt của cô ruột.
Tác giả Nguyên Hồng và Hồi ký Những ngày thơ ấu
Nguyên Hồng tên thật là Nguyễn Nguyên Hồng, sinh ngày 5 tháng 11 năm 1918 tại phố Hàng Cau, nay thuộc phường Trần Hưng Đạo, thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định, ông mất ngày 2 tháng 5 năm 1982 tại Tân Yên, Bắc Giang. Cha ông làm cai đề lao, sau thất nghiệp, cha ông vướng vào nghiện ngập khiến cảnh nhà dần sa sút, phải sống trong cảnh nghèo túng với tâm trạng của kẻ bất đắc chí. Mẹ ông là một người ngoan đạo, tần tảo, hiền hậu và giàu đức hy sinh nhưng không có hạnh phúc trong gia đình chồng.
Mới lên bảy, tám tuổi, nhà văn Nguyên Hồng đã cảm nhận một cách hồn nhiên và nhớ rất kỹ trong ký ức tuổi thở của mình rằng “thầy mợ tôi lấy nhau không phải vì thương yêu nhau” và ông chính là kết quả của cuộc hôn nhân gượng gạo ấy.
Năm 12 tuổi, Nguyên Hồng mồ côi cha và mẹ ông lén lút đi thêm bước nữa. Bà bị nhà chồng ruồng bỏ và hắt hủi, không được sống cạnh nhà văn Nguyên Hồng. Ông không được sống trong tình thương của mẹ mà còn phải sống trong sự khinh miệt của cô ruột. Khi Nguyên Hồng sinh ra thì bao kẻ tới tặng quà để lấy lòng cha ông là đề lao lúc, nhưng dần lớn lên sự phú quý đó cũng dần vơi theo, những ngày tháng sống xa mẹ là những ngày tháng ông phải chịu cảnh đói ăn, thiếu mặc và thiếu cả tình thương của mẹ.
Năm 16 tuổi, sau khi học xong tiểu học, Nguyên Hồng buộc phải bỏ học và đi cùng mẹ đến Hải Phòng kiếm sống. Nguyên Hồng đã đi xin việc ở nhiều nơi nhưng không thành công. Tại xóm Cấm, Hải Phòng, Nguyên Hồng kiếm sống bằng nghề dạy học tư cho trẻ em nghèo của vùng đó.
Nguyên Hồng tham gia vào phong trào Mặt trận Dân chủ (1936-1939) tại Hải Phòng. Vào tháng 9 năm 1939, ông bị bắt giữ và đưa vào trại tập trung ở Bắc Mê (Hà Giang) vào năm 1940. Năm 1943, Nguyên Hồng tham gia vào Hội Văn hóa Cứu quốc bí mật cùng với Nam Cao, Tô Hoài, Nguyễn Huy Tưởng...
Năm 1957, Nguyên Hồng là một trong những người sáng lập Hội Nhà văn Việt Nam.
Nguyên Hồng bắt đầu viết văn từ năm 1936 với truyện ngắn 'Linh Hồn' được đăng trên Tiểu thuyết thứ 7. Đến năm 1937, ông đã thực sự nổi tiếng trên thị trường văn học với tiểu thuyết 'Bỉ vỏ'. Ngoài ra, ông còn nổi tiếng với nhiều tác phẩm khác như Qua những màn tối (1942), Cuộc sống (1942),...
Hồi ký Những ngày thơ ấu tập hợp các câu chuyện của tác giả Nguyên Hồng từ khi ông là một cậu bé 7 - 8 tuổi cho đến khi trở thành một giáo viên tại làng Cấm (Hải Phòng). Tác phẩm này tập trung vào những ký ức về tuổi thơ cùng những khó khăn của tác giả, bên cạnh những thăng trầm của gia đình do cha nghiện ngập, mẹ cậu tha phương cầu thực, xa rời mẹ và cậu phải chịu sự cay đắng từ cô ruột khiến cho tuổi thơ của cậu không hề trọn vẹn. Tuổi thơ của cậu là những trận đánh nơi cậu sống trong sự tiêu cực, những ngày sống trong ấm ức tuổi hờn, có lẽ chính vì vậy mà tác giả có thêm nhiều tư liệu để viết nên nhiều tác phẩm nổi tiếng sau này.
Tác phẩm Những ngày thơ ấu cũng thể hiện một bức tranh u tối về con người trong thời kỳ Pháp thuộc, với sự cay đắng của nhân dân, sự bạo lực trong giáo dục từ người thầy và người cô. Định kiến là hai từ mà người đọc sẽ nhớ mãi khi nghĩ về Nguyên Hồng và mẹ cậu, vì định kiến đã khiến mẹ và cậu phải chịu những lời nói khắc nghiệt từ người bà, người cô và mọi người xung quanh.
Sự suy tàn của một gia đình giàu có
Khi mới sinh ra, cậu bé Nguyên Hồng được rất nhiều người xấu xa mừng rỡ, nhiều kẻ xin lòng ông bà tôi đến chăm sóc, mang theo quà như vàng bạc, lụa, gạo, gà, trứng muối, cá biển tươi... từng thùng, từng thùng, từng bọc đã đổ nát cả tủ quần áo và chạn thức ăn.
Ngược lại với sự giàu có khi mới sinh, khi Hồng lên bảy, lên tám, gia đình bắt đầu suy thoái và cha cậu đã bỏ việc làm làm cai ngục, không còn sự ngưỡng mộ và nhờ vả từ những kẻ xấu hay những người hỗ trợ. Cha cậu dần dần đi vào con đường nghiện ngập, mẹ Hồng dù có bán đồ trong nhà cũng không đủ để mua thuốc phiện.
'Trong hoàn cảnh đó, bà nội cậu khóc nức nở:
- Anh làm khổ tôi quá! Anh ỷ mình quá! Đương nhiên anh bỏ việc nhà nước. Đương nhiên anh mang bàn đèn về nhà, hút ngày hút đêm... Rồi đột nhiên anh mang văn tự địa đồ đi cầm lấy hàng năm bảy trăm bạc, chịu lãi hàng mười phân để đi Sài Gòn, Sài chéo, cày cục hàng trăm bạc để mua sổ đi làm những tàu Tây, tàu Nhật, tưởng mình sẽ thành vương tướng gì không việc hoàn không việc, nghiện ngập hoàn nghiện ngập.
Tiếng khóc vang dội, và từ trong hai hốc mắt tối, những giọt nước tràn ra long lanh trên gò má hóp rắn reo, như một con đập nước đang khô cạn bỗng đầy ứ đến bừng lở.
Mọi sự phẫn nộ của một người bất lực, gần như đất xa trời, bà cậu trút dần lên đầu mẹ Hồng:
Đôi khi, trong bóng tối của căn phòng, sau khi kể xong một chuỗi kinh và đọc hàng trăm kinh khác nhau, vẫn còn nghe tiếng vo vo kéo dài, bà tôi đã khẽ ho và hỏi thầy tôi:
- Cậu bé Hồng vẫn còn thức đấy ư?
- Không! Thưa mẹ, con sắp xong rồi mà…
- “Sắp xong rồi mà!” – Bà tôi lặp lại câu nói của thầy tôi với một tiếng thở dài. Sự tức giận của bà đã đạt đến đỉnh điểm, khiến bà dám hỏi thầy tôi như vậy, từ ngày thầy tôi luôn ho ra máu, mẹ tôi phải lo lắng về việc ăn uống của mọi người trong nhà. Và, khi hỏi câu đó, bà còn ý nói một cách tế nhị nhắc nhở thầy tôi rằng:
- Vợ mày đã coi thường tao lắm đấy! Hãy cố gắng từ bỏ thuốc xái đi.
Không! Mẹ tôi không dám! Cuộc sống của mẹ luôn chỉ là cái bóng ngăn của bức tường dày, mãi mãi thấp thoáng ở dưới chân, sẽ tan biến vào đất khi ánh sáng tắt. Và, người phụ nữ hiền lành dễ xúc động ấy, khi nào lòng lại đầy những vết thương tự ái, thù hận? Mẹ tôi chẳng thể nhìn thấy thầy tôi ngồi ôm ngực ho từng cơn, rồi rũ rượi nhổ, mẹ tôi chỉ có thể cúi đầu thở dài. Và trong ánh mắt mờ nhạt của mẹ tôi, không ít lần long lanh như nước mắt.
Trong mọi hoàn cảnh, mẹ Hồng là hình mẫu của người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa, chỉ biết chịu đựng, ngậm ngùi trước những lời nói nặng nề từ mẹ chồng và gánh nặng cuộc sống của chồng, cả cơm áo gạo tiền và cả thuốc phiện, đều đặn dồn lên đôi vai của một người phụ nữ nhỏ bé.
Tình yêu vượt lên trên mọi rào cản xã hội.
Sau khi cha Nguyên Hồng mất vì cuộc sống khó khăn, mẹ ông đã xa xôi cầu thực và đã lén lút bước đi tiếp, kết hôn lại. Trong thời đại với những định kiến về người phụ nữ, việc của mẹ Nguyên Hồng bị chỉ trích và châm chọc. Tuy nhiên, Nguyên Hồng không căm ghét mẹ mình mà càng thương mẹ hơn - một người phụ nữ chịu nhiều khổ đau vì số phận và định kiến lúc đó.
'Mẹ tôi, phải, người phụ nữ mới hơn ba mươi, khuôn mặt vẫn tươi sáng ấy, sau một chút do dự, đã hỏi tôi câu này, giọng nói nhỏ nhẹ và run rẩy:
- Con có chấp nhận để mợ đưa em bé về không?
Trời ơi! Một trường hợp bi thảm! Phong tục và truyền thống cổ hủ đã ép người mẹ sinh con khi chưa kết thúc đám tang người chồng cũ, điều đáng sợ hơn cả là những tội ác tày trời. Và sự kì thị lạc hậu từ thời xa xưa đã đặt một đứa con trai chưa đầy mười bốn tuổi lên một tầm cao để mẹ phải tuân thủ, phải cầu nguyện!
Tôi nắm mạnh vai mẹ tôi:
- Mợ đừng khóc nữa! Mợ hãy đưa em bé về! Con cần làm gì mợ phải hỏi con?
Những ý nghĩ căm phẫn bất ngờ nổi lên trong lòng tôi. Bị kích thích, tôi nói nhanh:
- Mợ không cần phải sợ ai! Mợ hãy quyết định đưa em về.'
Trong những thời khắc như thế, cậu bé Nguyên Hồng chỉ mong những nghi lễ, định kiến đã làm khổ mẹ mình như một viên đá hay một tảng thủy tinh, để cậu có thể tấn công, cắn, nhai, và nghiến nát chúng mới được.
Những đêm đông khắc nghiệt
Phải xa nhà đi làm, mẹ Nguyên Hồng không biết những nỗi đau, khổ đau khi cậu phải sống với bà và người cô khắc nghiệt, không mảy may tình thương. Sau khi cha mất, sự quan tâm của bà dành cho cậu dần trôi đi, và mỗi khi có cơ hội, người cô luôn tìm cách châm chọc và mỉa mai Nguyên Hồng, làm tổn thương thêm trái tim non nớt của cậu. Trong những lúc cô đơn và mệt mỏi, cậu chỉ biết trút bầu tâm sự và viết lên mặt sau của bìa lịch, viết nhiều đến nỗi kín cả chữ.
'Ngày 12-11-1931. – Cô C. chắt nước ở liễn cháo gà đã vụt vào cái bát của con. Cô ấy gọi tôi ăn. Ai muốn ăn? Dù có đói đến mấy! Cô ấy quý đầu bếp hơn cả tôi mà.
Ngày 14-11-1931. – Phải nhớ cái tát và lời chửi này đến cuối đời: “Hồng ơi! Bố mày đã chết rồi, nhưng mà mẹ mày còn đây dạy mày. Cầm gậy của mẹ mày đánh bố mày theo cấp, bỏ mày lêu lổng thì đã có chúng tao”.
(…)
Ngày 20-11-1931 – Giá như ai đó cho tôi một xu nhỉ? Chỉ một xu thôi! Để tôi mua xôi hay bánh khúc. Trời lạnh thế này, đi học một mình, vừa đi vừa ăn ngon lành bao giờ? Không! Không có ai cho tôi cả. Vì họ không phải là mẹ tôi đâu!
Ngày 26-11-1931. – Không ai có thể khiến tôi bực mình. Bạn có tức không? Ai đó trêu ghẹo cô ấy và cô ấy đã nổi giận đến mức réo tên mẹ mình lên và chửi bới. “- Chẳng ai trong chúng ta là thâm hiểm cả. Chỉ có bạn thôi. Bạn là đứa con của L, mẹ bạn. Quyển truyện đó đáng giá như vàng mà bạn đã dám đưa tay vào cướp của tôi”.
(…)
Ngày 1-12-1931: Bạn ơi! Sống hay chết, có thể bạn hiểu cho tôi không? Tôi cầu xin bạn một việc nhỏ thôi mà sao bạn không chịu giúp tôi? Bạn chỉ cần giúp tôi được một chút thôi. Tôi đang rất đói bạn ạ! Trời lại mưa rét quá'.
Những lúc như vậy, Nguyên Hồng chỉ có thể nhớ về người mẹ xa xôi đang mong mỏi thấy con trở về: 'Mẹ ơi! Con khổ quá mẹ ơi! Sao mẹ đi mãi thế? Mãi không về!' với niềm hi vọng cần cù được mẹ bên cạnh trong những lúc khó khăn.
Đọc những dòng này, chúng ta càng hiểu rõ hoàn cảnh của tác giả khi còn nhỏ và không có mẹ bên cạnh. Cậu ấy đã trải qua biết bao khó khăn, tiếp tục những lời mắng nhiếc, cảm nhận lạnh lẽo, rét buốt và cả cảm giác đói. Nhưng điều đáng chú ý là cậu ấy không hận mẹ mình, ngược lại, cậu ấy yêu quý mẹ hơn, mong mình sẽ được sống trong vòng tay ấm áp của mẹ một ngày nào đó.
Sự đồng cảm từ những người cùng chịu khổ
Sau khi đến Hải Phòng cùng mẹ và định cư tại làng Cấm, nhà văn Nguyên Hồng đã mở lớp dạy thêm cho các em nhỏ nghèo tại địa phương đó, nhận tiền học phí từ các em làm kế sinh nhai. Tuy nhiên, những đứa trẻ nghèo luôn mang trong mình những lo lắng riêng, và mỗi khi anh hỏi về việc tiền học, những lo lắng ấy được thể hiện rõ ràng:
'Một lần, tôi hỏi một học trò thường xuyên thiếu tiền học:
- “Bố” của em đã có việc chưa?
Cô bé với mái tóc dài rối bời và đôi mắt long lanh nhìn tôi. Ánh mắt nâu của em mờ đi sau lớp nước mắt, em nói khóc:
- Xin lỗi anh, “bố” em mất việc từ tháng trước rồi!
Và một trường hợp khác
- Mẹ cháu nghỉ bán hàng hay sao mà chưa trả tiền cho cậu?
Cậu bé tóc rẽ ngôi, mắt luôn ánh lên nụ cười, đáp lại lời tôi một cách dứt khoát.
- Mẹ cháu mới sinh đôi, sao mà đi được?
Tôi cố gắng nuốt nấc nghẹn trong cổ họng và quay mặt thật nhanh để lau nước mắt khi thằng An béo mũm mĩm như con heo khoe với tôi:
- Thưa cậu, “bố” con bị bắt bỏ tù!
Thằng An nói rất nhiều, nhưng tôi không muốn nhắc lại, vì từng lời ngây ngô của đứa trẻ chỉ mới chín tuổi, nhưng phải chịu đói liên tục, như mũi kim đâm từ từ vào tim tôi.
- Thưa cậu, người ta còn tịch thu cả gánh hàng của mẹ cháu nữa.
An, Phòng, Như, Lết!... Các em của tôi! Cha mẹ các em đã giúp tôi sống qua ba năm đói kém và vô cùng khó khăn; ba năm mà tôi luôn lo sợ mỗi khi thấy bóng dáng đội xếp Tây hay ta đi qua xóm! Nhưng ba năm ấy, các em đã mang lại cho tôi những phút giây hạnh phúc đến tê tái khi các em biết đọc, biết viết quốc ngữ chỉ sau vài tháng và các em líu lo đọc những từ tiếng Pháp. Trong ba năm đó, các em đã âm thầm cho tôi cảm nhận sâu sắc về tình cảm quyến luyến và trìu mến như bầy chim nhỏ với bàn tay dịu dàng rắc thóc.'
Có lẽ đây là lúc mà Nguyên Hồng cảm nhận sâu sắc nhất về những mảnh đời bất hạnh, dù hoàn cảnh có khác nhau nhưng đều chịu đựng nhiều đắng cay của cuộc sống và từ những người xung quanh. Sự đắng cay của Nguyên Hồng là không có mẹ bên cạnh, lớn lên trong sự vô cảm của bà nội và sự miệt thị của cô ruột. Còn những đứa trẻ này lo lắng không được học hành vì cơm áo gạo tiền, vì cha bị bắt, mẹ mới sinh em…
Lời kết
Hồi ký Những ngày thơ ấu đã ghi lại tuổi thơ của nhà văn Nguyên Hồng chỉ toàn những mảng xám xịt như giông bão, luôn phải nghe những lời khinh miệt, mỉa mai dành cho mẹ và cả cậu. Chỉ sau những tờ lịch đã kín chữ, Hồng mới có thể trút bỏ nỗi lòng, ghi lại những tổn thương mà cậu phải chịu đựng từ những người xung quanh.
Hồi ký Những ngày thơ ấu kết thúc bằng một cái kết mở, mang lại nỗi buồn đồng cảm với tác giả và lo lắng cho tương lai u ám của chàng thiếu niên Nguyên Hồng. Hồi ký cũng phản ánh cuộc sống khổ cực của người dân Việt Nam dưới ách cai trị hà khắc của Thực dân Pháp, những định kiến phong kiến kìm kẹp con người, đặc biệt là phụ nữ.
Hãy đọc quyển sách này để hiểu thêm về nhà văn và biết trân quý những gì chúng ta đang có.
Tóm tắt và đánh giá bởi: Kẻ lười hay viết – MyBook
Hình ảnh: Quỳnh Thanh