“Trong hàng ngũ các nhà tình báo xuất sắc của chúng ta, ông là một vị tướng có công lao đặc biệt. Cuộc đời ông trải qua nhiều câu chuyện hào hùng và căng thẳng trong ba cuộc chiến tranh vì độc lập tự do của đất nước: chống Pháp, chống Mỹ, bảo vệ biên giới Tây Nam và phía Bắc, trong đó có hơn hai mươi năm hoạt động đơn độc tại Sài Gòn.
Với lòng yêu nước mãnh liệt và tài năng thiên bẩm, ông đã thực hiện nhiều điệp vụ xuất sắc, hỗ trợ đắc lực cho kháng chiến, giảm thiểu tổn thất trong chiến tranh. Ông từng cứu ông hoàng Norodom Sihanouk khỏi vụ ám sát, giải cứu ông Nguyễn Văn Linh (sau này là Tổng Bí thư Đảng) và chín đặc khu ủy viên Sài Gòn - Gia Định thoát khỏi cuộc truy bắt của cơ quan mật vụ chính quyền Sài Gòn, tiêu diệt các ổ gián điệp tại miền Bắc. Là chỉ huy tình báo trong chiến tranh bảo vệ biên giới sau năm 1975, ông là người phát hiện sớm nhất âm mưu của bè lũ Pol Pot và đồng minh, giúp Tổng hành dinh định đoạt chiến lược và triển khai chiến dịch bảo vệ biên giới, giải phóng Campuchia khỏi thảm họa diệt chủng, hỗ trợ quân dân Campuchia xây dựng chính quyền và ổn định cuộc sống.
Đồng đội gọi ông là Ba Quốc, còn trong giấy tờ, ông là Đặng Trần Đức, Thiếu tướng Anh Hùng Lực lượng Vũ trang Nhân dân Việt Nam.
Đôi lời từ hai tác giả: Hoàng Hải Vân và Tấn Tú
Cuốn sách gồm hai phần, phần đầu viết 20 năm trước dưới dạng một ký sự cùng tên, phần sau viết 6 tháng trước, lẽ ra nó được phát hành cùng lúc với cuốn “Người Thầy” của tướng Nguyễn Chí Vịnh, nhưng do thủ tục xuất bản nên sách ra sau.
Hơn một năm trước, tướng Vịnh gọi điện cho tôi, thông báo rằng anh đang viết một cuốn sách về chú Ba và đề nghị tôi tập hợp loạt ký sự của Thanh Niên về ông thành một cuốn sách, phát hành đồng thời với sách của anh để kỷ niệm 100 năm Ngày sinh ông Ba Quốc. Anh còn đề nghị tôi viết thêm phần 'Hai mươi năm nhìn lại', cung cấp thông tin về hoạt động của ông Ba sau năm 1975, một giai đoạn đầy vinh quang mà ông chưa từng tiết lộ.
Hai mươi năm trước, sau khi hoàn thành loạt ký sự về tướng Phạm Xuân Ẩn, tôi đã gặp ông trong một buổi họp mặt các nhà tình báo lão thành, xin phép viết về ông nhưng ông từ chối: 'Chuyện của tôi không có gì đáng viết, hãy để nó chìm vào quên lãng'. Tôi nhờ một số nhà tình báo lão thành nói giúp, nhưng ông vẫn không đồng ý. Sau đó, tướng Vịnh đưa tôi đến gặp ông và bảo đảm về tư cách của chúng tôi, ông mới đồng ý. Khi đó, tên ông chưa từng xuất hiện trên sách báo.
Giống như loạt ký sự về tướng Phạm Xuân Ẩn, loạt ký sự về ông Ba Quốc tôi viết dưới dạng feuilleton đăng hàng ngày trên báo Thanh Niên. Những câu chuyện của ông cuốn hút tôi, khiến tôi viết rất hứng thú. Đến bây giờ đọc lại vẫn thấy những gì mình viết không tồi.
Tổng cục 2 từng 'khuyến khích' tôi viết về Phạm Xuân Ẩn và nhiều nhà tình báo khác, nhưng họ chưa bao giờ cung cấp bất kỳ thông tin gì. Chỉ có một lần họ bảo tôi đến xin cuốn hồi ký của ông Sáu Trí (tướng Nguyễn Đức Trí, 'trùm' tình báo miền trong chiến tranh chống Mỹ). Đó là cuốn hồi ký ông viết để lại cho gia đình, chưa xuất bản. Tôi đến thì ông Sáu Trí yêu cầu phải có giấy của Tổng cục 2 mới đưa. Bạn đừng mong có được cái giấy đó từ Tổng cục 2. Tôi phải nhờ ông Tư Cang (cũng là một nhà tình báo anh hùng) lấy cho tôi cuốn hồi ký 3 tập đó (sau này ông Sáu Trí cũng tặng tôi). Tuy nhiên, tất cả các ký sự và bài viết của tôi về các nhà tình báo, Tổng cục 2 đều không xem trước, họ chỉ đọc và hoan nghênh sau khi báo đăng. Riêng ký sự về nhà tình báo Phạm Ngọc Thảo, lúc đó tôi không còn làm ở tòa soạn Thanh Niên. Vì có những chuyện 'nhạy cảm' nên báo Thanh Niên đã gửi cho Tổng cục 2 xem (sau này tôi mới biết), họ xem xong đồng ý mà không bỏ chữ nào. May mắn là những chỗ 'nhạy cảm' không bị tòa soạn cắt bỏ.
Tôi kể chi tiết như vậy để khẳng định rằng loạt ký sự về ông Ba Quốc không bị chỉnh sửa theo ý muốn của bất kỳ cấp trên hay cơ quan đoàn thể nào.
Di sản mà ông Ba Quốc để lại là vô giá trong kho tàng khoa học quân sự - chính trị Việt Nam, và nó sẽ mãi mãi tồn tại qua mọi thời đại, được truyền qua các thế hệ.
Các điệp viên và nhà chỉ huy tình báo của chúng ta có thể học ở ông cách phân tích thời cuộc và hiểu đối tượng trong các mối tương quan để đánh giá đúng bản chất. Mọi thứ đều cần bằng chứng xác thực. Học ở ông sự chính trực, báo cáo trung thực đúng những gì đang diễn ra, dù cấp trên có lớn đến đâu, một thông tin bị bóp méo có thể gây tổn hại nghiêm trọng cho đất nước.
Những người làm báo cũng có thể học ở ông sự chính trực trong nghề nghiệp. Viết theo khẩu vị đám đông hay theo ý muốn của ai đó, dùng suy đoán và lời đồn thay cho bằng chứng sẽ gây hại cho cộng đồng và oan sai cho người vô tội.
Các bạn trẻ, dù theo bất kỳ nghề nghiệp nào, đều có thể học ở con người phi thường này sự khiêm nhường không háo danh. Kẻ háo danh không những không làm được nghề tình báo mà còn không thể làm bất kỳ công việc ích nước lợi dân nào ra hồn.
Về nội dung:
Trước khi thâm nhập vào cơ quan địch
Tháng 5-1945, ông là Chủ tịch Ủy ban Nhân dân Cách mạng xã Thanh Trì (Hà Nội). Sau khi củng cố chính quyền xã, ông huy động nhân dân tham gia cuộc mít tinh ngày 19-8 tại Nhà hát lớn Hà Nội. Sau đó, ông được điều về Hà Nội làm công an, tham gia phá nhiều vụ án, trong đó có vụ án Ôn Như Hầu. Khi kháng chiến toàn quốc bùng nổ, ông là đoàn trưởng mặt trận Khâm Thiên, chiến đấu với Pháp suốt một tháng, sau đó rút vào Đô Lương (Nghệ An) làm trưởng khu Đức Hòa. Tháng 5-1949, ông chuyển sang ngành tình báo quân sự và được giao nhiệm vụ hoạt động tại Hà Nội. Ông vào Hà Nội với danh nghĩa đi tìm vợ con thất lạc, tận dụng các mối quan hệ để tìm chỗ đứng trong lòng địch. Nhờ một người quen, con rể của một nhân vật có thế lực, ông được giới thiệu với Đàm Y, quận trưởng quận 1 và tay chân của Tổng trấn Bắc Việt Nghiêm Xuân Thiện. Quan hệ đặc biệt với Đàm Y đã tạo ra bước ngoặt trong sự nghiệp tình báo của ông, từ đây ông bước chân vào cơ quan công an của Pháp.
Bước đầu thâm nhập vào cơ quan tình báo của chính quyền Sài Gòn
Sau khi giành được lòng tin của bác sĩ Trần Kim Tuyến, ông được bổ nhiệm làm cán bộ của Sở Nghiên cứu Chính trị Xã Hội. Từ đây, ông chính thức trở thành 'tay chân đáng tin cậy' của Trần Kim Tuyến. Để trở thành cán bộ của cơ quan này, cần ba điều kiện: phải là đảng viên Đảng Cần Lao, người Công giáo, và người miền Trung. Ông Ba Quốc không thỏa mãn bất kỳ điều kiện nào nhưng vẫn được bác sĩ Tuyến tin tưởng tiến cử, thể hiện tài năng đánh lừa địch của ông. Từ đó, ông ngày càng xâm nhập sâu hơn vào bộ máy chính quyền Sài Gòn, với vai trò nhân viên Cơ quan mật vụ Phủ Tổng Thống, mang về những thông tin cực kỳ giá trị.
Bộ mặt tham lam của chính quyền Ngô Đình Diệm
Ông Ba Quốc kể lại khi trả lời phỏng vấn hai nhà báo như sau:
“Năm 1956, Mỹ cấp cho Sở Nghiên cứu Chính trị Xã Hội (phòng 4) 50 triệu đồng (tiền Sài Gòn lúc đó) để tổ chức biệt kích đánh phá miền Bắc. Biệt kích thì chọn những người Công giáo di cư, hầu hết là người Bùi Chu - Phát Diệm để người Mỹ huấn luyện. Còn số tiền đó thì dùng để mua một chiếc tàu viễn dương loại tốt. Nhưng, bác sĩ Tuyến lại quan tâm đến việc khác nhiều hơn, ông ta đã dùng 30 triệu chỉ cho công việc của Đảng Cần Lao và củng cố Tổng liên đoàn lao động của Bùi Lượng để chống lại Tổng liên đoàn lao động của Trần Quốc Bửu do Mỹ khống chế. Số tiền còn lại đi mua tàu, bị phòng 4 ăn bớt một ít nữa, nên chỉ mua được một chiếc tàu cũ nát không ra gì. Sau chương trình đó, Mỹ vẫn nhận được tin tức về miền Bắc, nhưng đùng một cái người Mỹ sinh nghi. Bởi họ kiểm tra những tin tức đó, thấy không phải gửi trực tiếp từ Hà Nội mà lấy từ người của Trần Kim Tuyến ở Lào và Campuchia. Năm 1958, người Mỹ yêu cầu kiểm soát chương trình này. Để đối phó, Trần Kim Tuyến tạo sự cố cho tàu nổ luôn người khơi.”
Câu chuyện trên đủ cho thấy bản chất thối nát của chế độ Ngô Đình Diệm và sự bất hòa giữa VNCH và Mỹ. Sau này, những mâu thuẫn đó đã khiến người Mỹ nhúng tay vào gây đảo chính ở miền Nam Việt Nam. Trong những cuộc đảo chính ấy, tài trí của ông Ba Quốc càng được thể hiện rõ hơn bao giờ hết.
Giải cứu ông Nguyễn Văn Linh và chín ủy viên đặc khu Sài Gòn - Gia Định
Đây là một trong những chiến công vĩ đại nhất của ông trong giai đoạn hoạt động ở chính quyền Sài Gòn. Nhờ ông, đồng chí Nguyễn Văn Linh đã an toàn thoát hiểm và sau này trở thành Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam. Khi được giao thẩm vấn một kẻ phản bội trong hàng ngũ của ta, ông đã phát hiện âm mưu của địch. Dù biết nếu báo cho đồng đội, ông có thể bị lộ, nhưng nếu không cứu, lực lượng ta sẽ tổn thất lớn và đất nước không có một vị Tổng Bí thư tài năng như đồng chí Nguyễn Văn Linh.
Sau khi bàn giao toàn bộ hồ sơ cho giám đốc an ninh quân đội, ông mới có thể cảnh báo ông Nguyễn Văn Linh. Nhờ đó, hành tung của ông không bị lộ, vừa tiếp tục hoạt động tình báo, vừa cứu được cán bộ ta. Với lòng dũng cảm và trí tuệ, ông đã thông báo thành công mà không khiến kẻ địch nghi ngờ. Tố chất thiên tài của người làm tình báo hiện rõ trong ông.
Một 'sứ mạng' đầy nguy hiểm
Trong thời gian gia đình họ Ngô cầm quyền, họ phải đối mặt với sự chống phá lớn từ các giáo phái vũ trang Cao Đài, Hòa Hảo và quân Bình Xuyên. Đối với Diệm-Nhu, cộng sản chưa phải là mối đe dọa lớn nhất, mà là các giáo phái này. Mục tiêu của anh em họ Ngô là tiêu diệt đội quân của các giáo phái này.
Ông Ba Quốc được bác sĩ Trần Kim Tuyến giao nhiệm vụ bắt Trịnh Quốc Khánh, lãnh tụ 'Hòa Hảo dân xã'. Trần Kim Tuyến cho biết, nhân vụ lụt ở miền Tây năm 1956, Mỹ có ý định đưa thủy quân lục chiến xuống, danh nghĩa cứu lụt, nhưng thực chất để kiểm soát quân đội Hòa Hảo. Chế độ Ngô Đình Diệm do Mỹ dựng lên, nhưng anh em họ Ngô không muốn Mỹ can thiệp. Vì vậy, Ngô Đình Nhu đã viết thư mời Trịnh Quốc Khánh về Sài Gòn để thống nhất lực lượng Hòa Hảo với quân đội quốc gia, thực chất để lừa bắt Khánh, nhưng Khánh vẫn đồng ý.
Trong buổi tiệc chiêu đãi, ông Ba Quốc đã gặp riêng Khánh và chia sẻ: 'Một bên muốn bắt, một bên chờ thời cơ im lặng. Tôi đến đây theo lệnh của ông Nhu, nhưng cá nhân tôi rất ấm áp với các ông. Hãy nhớ, không có sự phối hợp giữa quân đội của ông và quân đội của chính phủ'.
Dù đối xử với phe nào, ông đều biết cách để lại ấn tượng tốt. Nhờ kỹ năng này, dù bị lộ, mọi người vẫn đối xử tốt với vợ con ông ở Nam.
Những người hy sinh hạnh phúc cá nhân vì hạnh phúc của dân tộc.
Luôn đồng hành cùng ông Ba Quốc trong những ngày đất nước mới giành được độc lập, tham gia bảo vệ chính quyền trong lực lượng công an xung phong tại Hà Nội, rồi vật lộn với cuộc di cư lớn từ thành thị ra chiến khu những ngày đầu kháng chiến là người phụ nữ đồng mình và sau này là vợ ông, bà Phạm Thị Thanh.
Niềm hạnh phúc của cặp đôi vừa mới bắt đầu, đứa con đầu lòng chào đời chưa đầy một tháng thì ông Ba Quốc nhận được mệnh lệnh từ Sở Công an Hà Nội để tham gia hoạt động tình báo. Vì nhiệm vụ mới, tháng 5-1950, ông Ba Quốc được đưa về Hà Nội (khi địch đang chiếm đóng) với danh nghĩa trở lại, tìm kiếm vợ con bị mất tích. Người đi cùng ông còn có một người tên Đặng Văn Hàm, con rể của ông Đàm Y - Quận trưởng quận 1 (khu Hàng Trống).
Khi ông Ba Quốc tái thiết liên lạc với tổ chức, cũng là lúc ông nhận được tin vợ con ông đã được sắp xếp sống ở nội thành Hà Nội. Cuộc gặp lại đầy xúc động diễn ra. Hai người đã kết hôn từ năm 1947, đã có một đứa con, nhưng trong tình cảnh này, ông phải nói với bà rằng họ chỉ có thể gặp nhau trong bí mật, lén lút, không thể sống hợp pháp, công khai.
Vì tình yêu và lo lắng với chồng, bà Thanh đồng ý mà không một lời than trách, chỉ mong rằng chồng mình sẽ được an lành và công việc tổ chức sẽ thành công.
Sau đó, cuộc sống yên bình tại xóm lao động nhỏ, nơi bà Thanh và gia đình sống, bắt đầu trở nên rối ren với những lời đàm đạo xung quanh. Cô Thanh, người từng sống giản dị và chăm chỉ chăm sóc gia đình, giờ đây đột nhiên trở thành đề tài nói chuyện, bị coi là người phụ nữ không chung thuỷ. Nhưng bà vẫn giữ cho mình niềm hạnh phúc riêng, và luôn lặng lẽ nhắn nhủ chồng rằng hãy yên tâm với công việc của mình, đừng lo lắng về mình và con cái.
Con trai thứ hai của ông Ba Quốc mới chỉ chào đời không lâu thì chiến dịch Điện Biên Phủ bắt đầu. Cả nước sống trong niềm vui của chiến thắng lịch sử. Cùng lúc đó, khi ông Ba Quốc nhận được lệnh từ cấp trên chuẩn bị cho cuộc di cư vào miền Nam, để tiếp tục hoạt động trong tình hình đất nước đang đối mặt với nguy cơ chia cắt kéo dài. Ông và vợ, cô Đàm Y, Quận trưởng quận 1, Hà Nội, cùng nhau lên kế hoạch cho cuộc di cư này, bao gồm cả việc định danh một người phụ nữ làm vợ kế cho ông.
Trong tình hình đó, tổ chức đề xuất ông Ba Quốc nên tuân thủ kế hoạch của ông Đàm Y để giải quyết mọi vấn đề liên quan đến quan hệ của mình, đồng thời tăng cường sự đồng lòng cho những thách thức sắp tới.
Sau nhiều ngày suy nghĩ, ông Ba Quốc quyết định nói thẳng với vợ. Nhưng điều ông không ngờ đến là vợ ông đã đặt lợi ích của đất nước lên trên tất cả, thậm chí cả hạnh phúc cá nhân của mình. Khi nghe chồng chia sẻ về nhiệm vụ của mình và việc phải cưới người phụ nữ khác để tạo vỏ bọc cho hoạt động của mình, bà Thanh đã im lặng đồng ý, nhưng điều kiện là ông Ba Quốc phải trao chiếc hoa tai (một món quà cưới từng được ông tặng cho bà) cho người vợ mới và phải ghi trên giấy tờ là vợ thứ hai...
Chúng tôi đã phỏng vấn tất cả các thành viên trong gia đình của ông Ba Quốc khi làm bộ phim tài liệu về cuộc đời ông. Dưới đây là những lời chia sẻ của chị Đặng Thị Hữu Hạnh, con gái ông Ba Quốc với vợ thứ hai của ông: “Trước năm 1975, khi nhìn vào giấy khai sinh của mình, tôi thấy ở dòng cuối cùng, nơi ghi là vợ chính thức hoặc vợ kế, bố tôi ghi là vợ kế. Tôi hỏi bố tại sao lại như vậy khi bố chỉ có một mình mẹ tôi. Bố tôi nói rằng khi nào tôi lớn lên, bố sẽ kể cho tôi nghe... Sau năm 1975, bố tôi mới lấy ra tờ giấy khai sinh và giải thích rằng: trước đây, khi Hạnh hỏi bố tại sao ghi là vợ kế thay vì vợ chính thức, bố đã giải thích, bởi vì hoàn cảnh khó khăn, bố đã có hai người vợ...”
Bên cạnh những thành tựu vang dội tại miền Nam, ông còn đóng góp quan trọng vào cuộc chiến bảo vệ biên giới Tây Nam của Tổ quốc. Trong thời gian này, những thành tựu của ông không kém phần nổi bật. Tuy nhiên, ông không bao giờ kể về những thành tựu của mình. Tuy nhiên, trong giai đoạn này, có một người học trò xuất sắc của ông, người sau này trở thành Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh - con trai của cố Đại tướng Nguyễn Trí Thanh.
Khi nhắc về người thầy của mình, tướng Vịnh đã nói: “ông Ba Quốc là một điệp viên nhị trùng siêu hạng. Một điệp viên có thể xâm nhập được vào các cơ quan quan trọng như Phủ Tổng Thống, Bộ Quốc phòng, Bộ Tổng Tham mưu quân đội Sài Gòn hoặc các cơ quan đầu não khác của đối phương là rất hiếm, nhưng một điệp viên có thể xâm nhập vào cơ quan tình báo của đối phương để tham gia chỉ đạo lực lượng tình báo địch để đánh lừa chính phủ ta, thì chỉ có ông Ba Quốc ở Việt Nam, và cũng hiếm thấy ở nước ngoài có điệp viên nào giỏi như vậy. Tôi không thể nghĩ về ông Ba Quốc mà không biết ơn. Thực sự, tôi rất biết ơn số phận đã mang lại cơ hội cho tôi được làm học trò của ông Ba''. Con trai ông, Anh Vũ, từng nói: “Tôi là sản phẩm tốt nhất của ông Ba Quốc”. Phú, người lái xe cho ông Ba, cũng nhắc lại: “Vịnh là sản phẩm tốt nhất của tôi” khi ông Ba nói vui vẻ.
Suốt nhiều năm, từ chiến trường Campuchia đến Thành phố Hồ Chí Minh, từ Nam ra Bắc, từ những buổi họp cân nhắc đến những bữa cơm chiều bình yên..., ông Ba luôn kể cho tôi nghe về cuộc đời của mình. Dường như những câu chuyện đó đơn giản, nhưng qua đó, tôi hiểu được bài học mà ông muốn truyền đạt. Ông không bao giờ dạy bằng lời nói, và cũng không bao giờ nói rõ ai là học trò của ông, nhưng mọi người đều biết rằng người đó là tôi. Tôi được ông dạy bằng cách kể về cuộc sống và công việc của mình, cùng với những người đồng nghiệp khác. Từ đó, tôi học được điều gì là đúng, điều gì là sai.
Nhưng nói rằng ông Ba chỉ dạy tôi là không đúng, thậm chí là sai. Cơ quan Tình báo phía Nam (J22), sau này trở thành cục 12, có một lịch sử lâu đời từ thời chiến đấu chống Pháp và chống Mỹ. Đó là nơi nuôi dưỡng, rèn luyện và thử thách cán bộ tình báo qua các thời kỳ. Những người lãnh đạo trước đó có một 'ngân hàng' các ứng viên từ khắp nơi, biết cách lựa chọn người phù hợp nhất cho từng nhiệm vụ, thường là những lựa chọn không sai. Trong suốt 20 năm lãnh đạo đoàn 817 và cục 12, ông Ba đã đào tạo ra nhiều cán bộ tình báo, và chúng tôi thường tự hào gọi chúng là 'thế hệ học trò của ông Ba”.
Cảm nhận cá nhân
Chỉ với hơn 200 trang sách, chúng không thể diễn tả đầy đủ về cuộc đời của một tượng đài trong ngành tình báo, cũng như một minh chứng về sự kiên cường, dũng cảm và không khuất phục của dân tộc chúng ta. Ông không cầm súng trực tiếp, không tham gia vào những trận đánh khốc liệt trên chiến trường, nhưng ông đã đối đầu trực tiếp với tâm trí của đối thủ, và mang lại những thông tin quan trọng cho quân đội. Là một con người sống trong thời đại hòa bình do những nỗ lực của thế hệ trước, chúng tôi rất biết ơn sự hy sinh của họ.
Tóm tắt bởi: Starling - MyBook
Ảnh: Trúc Phương