Tóm tắt bài Nói và nghe: Giới thiệu, đánh giá về nội dung và nghệ thuật của một tác phẩm thơ trang 67 ngắn nhất nhưng vẫn đầy đủ những ý chính, tuân thủ sách Ngữ văn lớp 10 Liên kết tri thức với cuộc sống giúp học sinh soạn văn 10 dễ dàng hơn.
Tóm tắt bài (Nói và nghe trang 67) Giới thiệu, đánh giá về nội dung và nghệ thuật của một tác phẩm thơ (trang 67) - ngắn gọn nhất Liên kết tri thức
* Điều kiện:
- Cung cấp các thông tin chính về bài thơ một cách rõ ràng và ngắn gọn: tên bài thơ, tác giả, chủ đề, dạng thơ,…
- Thể hiện được sự quan tâm của bản thân đối với những nét nổi bật về nội dung và hình thức của một tác phẩm thơ.
- Trình bày quan điểm cá nhân về vấn đề trình bày, thuyết phục được người nghe và đặt câu hỏi để khuyến khích các cuộc thảo luận sâu hơn.
- Thể hiện sự tôn trọng đối với những cảm nhận và đánh giá đa dạng về một tác phẩm thơ.
1. Chuẩn bị phần nói và lắng nghe
a. Chuẩn bị phần nói
* Chơi chơi xổ số tài: Giới thiệu và đánh giá về nội dung cũng như nghệ thuật của bài thơ “Mùa xuân chín” (Hàn Mặc Tử)
* Thu thập và tổ chức ý kiến
- Nội dung:
+ Mô tả bức tranh về thiên nhiên mùa xuân tươi đẹp, đầy sức sống
+ Cảm xúc sâu thẳm: biển động trong tình yêu, hoài niệm với vẻ đẹp, nhớ nhung quê hương
- Nghệ thuật
+ Phong cách cổ điển: những nét tương đồng với thể thơ Đường lối (kiểu thơ, nhịp điệu, tạo vần)
+ Hiện đại: ảnh hưởng của trường phái tượng trưng siêu thực
- Đánh giá về thành công, giá trị, và tầm ảnh hưởng của tác phẩm đối với bản thân
* Xác định từ ngữ chính
Có thể sử dụng các cụm từ phù hợp với dạng bài nói này như: Trong phần giới thiệu về tác phẩm này, tôi muốn tập trung vào việc, … Điểm thu hút nổi bật nhất đối với tôi về tác phẩm là... Đó chính là lý do tại sao không thể không đề cập khi giải thích sức hấp dẫn của tác phẩm này...
* Phương tiện hỗ trợ
- Chuẩn bị bài trình chiếu PowerPoint với các thông tin cần thiết (có thể làm nổi bật các điểm chính bằng cách in đậm, sử dụng các biểu tượng để làm nổi bật những chủ đề đã được xác định ở trên), cần xem xét số lượng slide sử dụng. Có thể sử dụng âm thanh và hình ảnh (chú ý: hình ảnh phải phù hợp với bài thơ đã chọn. Ví dụ, với bài thơ 'Mùa xuân xanh', nên chọn hình ảnh thể hiện mùa xuân liên quan đến nông thôn, quê hương).
- Người trình bày cũng có thể chuẩn bị văn bản của tác phẩm thơ sẽ được trình bày để cung cấp cho người nghe trước khi trình bày bài nói.
b. Chuẩn bị phần nghe
- Nắm vững vấn đề được thảo luận, xem xét kiến thức về ngôn ngữ văn học, đọc các tài liệu mà người trình bày có thể đã chuẩn bị và cung cấp.
- Sẵn sàng lắng nghe và tương tác với người trình bày, chú ý theo dõi cách họ phân tích từ ngữ, hình ảnh, và cách họ sử dụng các kỹ thuật phân tích.
2. Thực hành phần nói và nghe
Ví dụ bài phát biểu:
Xin chào mọi người, tôi là ............... Hôm nay, tôi đến từ toà soạn báo Phong Hoá, một tờ báo nổi tiếng trong phong trào Thơ mới tại Việt Nam. Trong vai trò là một nhà báo, tôi sẽ giới thiệu với các bạn một nhà thơ với phong cách rất độc đáo, kỳ lạ, mời các bạn cùng khám phá nhé.
Nhà nghiên cứu Chu Văn Sơn từng nhận định: “Thơ của Hàn Mặc Tử là tiếng thơ vang lên từ sự hủy diệt để hướng về sự sống”. Thật vậy, khi đọc thơ Hàn Mặc Tử, ta luôn cảm nhận được lòng khát khao yêu đời, khát khao sống. Một trong những bài thơ nổi bật là “Mùa xuân chín”. Bài thơ được chọn từ tập “Đau thương” (1938) – được coi là “tiếng thơ trẻ tuổi nhất của Hàn Mặc Tử”, trẻ trung nhưng cũng đầy bí ẩn, đầy đau thương.
“Mùa xuân chín” gây ấn tượng với bạn đọc bởi chính nhan đề của nó. Khi đọc thơ của Hàn Mặc Tử, chúng ta luôn cảm nhận được sự u hoài, mơ màng, kỳ bí, đầy buồn và đau thương với những hình ảnh đặc trưng là “máu”, “trăng” và “rượu”. Tuy nhiên, “mùa xuân chín” mang lại cảm giác hoàn toàn mới lạ, một không gian tràn đầy sức sống của cảnh xuân và tình xuân. “Chín” là từ dùng để mô tả trạng thái của quả cây khi đã đến giai đoạn thu hoạch, ngọt ngào, mọng nước và thơm mát. Với ý nghĩa đó, Hàn Mặc Tử đã tạo ra một “mùa xuân chín” – một mùa xuân tràn đầy sức sống, viên mãn và đầy đủ. Mùa xuân đang ở độ tươi đẹp nhất, rạng rỡ nhất, đầy sức sống nhất.
Dòng thơ này là sự chuyển đổi tinh tế của tâm trạng với những bước ngoặt bất ngờ. Về thời gian, tác giả đang ấp ủ trong hiện tại với cảnh xuân tươi đẹp hiện ra trước mắt, đột nhiên nhớ về quá khứ xa xăm với khung cảnh làng quê thân thương. Về phong cảnh, bức tranh xuân từ bên ngoài (nhà tranh, đồng cỏ xanh tươi, ...) bất thình lình biến thành tâm cảnh (cô gái đánh thóc dọc bờ sông trắng). Về cảm xúc, Hàn Mặc Tử thể hiện dòng tâm tư của bản thân với nhiều bước ngoặt: từ niềm đam mê, hứng khởi đến trạng thái buồn bã, xao xuyến rồi đau thương đến tận xương. Có thể thấy, dòng thơ không đi theo một hướng mà luôn chuyển động linh hoạt, phong phú. Đó chính là phong cách thơ đặc sắc của thi sĩ Hàn.
Bài thơ bắt đầu bằng bức tranh thiên nhiên tươi mới, rạng rỡ ánh nắng:
“Dưới ánh nắng chiếu sáng mờ tan
Đôi mái nhà tranh lấp loáng tia vàng
Sượt soạt gió thổi đùa áo xanh biếc
Trên gian trời xanh. Bóng xuân rực rỡ”.
Thiên nhiên mùa xuân hiện ra ngập tràn sắc vàng của nắng hoà trong làn sương mơ hồ, huyền bí. Cách kết hợp từ “mơ tan” khiến ta hình dung như những lớp sương đang tan trong nắng tạo nên một khung cảnh đẹp như mơ. Sắc vàng của nắng trở nên rực rỡ hơn với hình ảnh “đôi mái nhà tranh lấp loáng tia vàng”. Trong khung cảnh thanh bình, yên ả ấy bỗng nhà thơ bắt gặp tiếng “sượt soạt” của “gió thổi đùa áo xanh biếc”. Biện pháp đảo ngữ và nhân hoá đã được nhà thơ sử dụng một cách tài tình. “Sượt soạt” được đảo lên đầu câu nhằm nhấn mạnh của động vật. Gió như đang trêu đùa cùng áo xanh biếc đón xuân sang, khiến không khí mùa xuân trở nên sôi động, vui tươi, đầy hứng khởi. Từ mái nhà tranh, nhà thơ di chuyển điểm nhìn đến “gian trời xanh”. Dấu chấm đặt giữa câu thơ như một sự ngập ngừng, ngắt quãng. Bởi đó là khoảnh khắc thi nhân giật mình nhận ra “bóng xuân rực rỡ”. Mùa xuân được hữu hình hóa, có thể quan sát bằng thị giác. Bóng của mùa xuân nhẹ nhàng bước tới như thể đang đứng trước mặt nhà thơ, khiến con người ngỡ ngàng mà chiêm ngưỡng cái sắc xuân tươi đẹp ấy.
Từ điểm nhìn cận cảnh, Hàn Mặc Tử đưa tầm mắt ra xa với cái nhìn viển vông. Không gian mùa xuân được mở rộng với “sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời”. “Sóng” được kết hợp với thảm cỏ xanh mướt khiến bạn đọc hình dung từng lớp cỏ như nối tiếp nhau, trải dài bất tận, sức sống dường như đang căng tràn một cách mãnh liệt. Ý thơ làm ta nhớ đến một câu thơ trong đoạn trích “Cảnh ngày xuân” của Nguyễn Du: “Cỏ non xanh tận chân trời”. Cùng diễn tả một không gian mùa xuân với thảm cỏ xanh mướt trải dài bất tận nhưng cái độc đáo của Hàn Mặc Tử là cách nói “sóng cỏ” gợi ra một sự uyển chuyển, nhẹ nhàng mà mượt mà của những lớp cỏ xuân. Phải chăng sức sống cuộn trào từ bên trong, tạo thành những đợt sóng và kết lại tạo nên một “mùa xuân rực rỡ”!
Từ cảnh thu, Hàn Mặc Tử bỗng chuyển sang tình thu, bức tranh ngoại cảnh trở về với bức tranh tâm cảnh. Phải chăng, nhà thơ dùng cảnh mở đầu là để nói tình, tả tình? Một tình yêu nồng nàn, thiết tha với con người và cuộc đời. Hoà cùng với không khí vui vẻ của mùa xuân, ta thấy được cái nồng nàn trong lòng người:
“Bao cô thôn nữ hát trên đồi
-Ngày mai trong bản nhạc xuân xanh lá
Có người theo chồng để bỏ cuộc vui”
“Xuân xanh” là biểu tượng của sự trẻ trung, xinh đẹp. Tuổi xuân của họ tươi sáng, rực rỡ như mùa xuân trên bầu trời. Niềm vui của những cô gái trong làng trong không khí xuân chính là tình yêu. Ánh nắng có lẽ chính là đôi má hồng của những cô gái khi “theo chồng để bỏ cuộc vui”. Niềm vui của họ là tình yêu đôi lứa, là sự kết nối trong hôn nhân đến già. “Mùa xuân chín” không chỉ là thời tiết xuân mà còn là tình yêu xuân. Chữ “chín” trong tình yêu chính là thành quả của vợ và chồng. Niềm hạnh phúc của những cô gái được thể hiện trong “tiếng hát vang vọng lưng chừng núi”. Hàn Mặc Tử đã sử dụng nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác thật tài tình. “Tiếng hát” vốn được cảm nhận bằng thính giác, nay được hiện hữu hóa trong trạng thái “vang vọng”, cảm nhận bằng thị giác. Tiếng hát say sưa của con người như có sức hút, cao vút đến lưng chừng núi thể hiện niềm say mê yêu đời mãnh liệt. Dư âm của tiếng hát dường như còn ngập ngừng mà “vang vọng lưng chừng núi” tạo nên một âm thanh vang vọng khắp không gian. Xuân tự nhiên lan tỏa, giao hòa với xuân trong lòng người, cả hai nhập vào nhau trong cùng một tiếng hát. Là tiếng hát của những cô gái làng quê mà cũng là tiếng hát của mây nước. Thiên nhiên và con người đồng ca, đồng vọng hay tiếng hát trong lòng thiên nhiên đang được phát lên qua lời hát của con người.
Từ âm thanh cao vút, hoành tráng như lời của mây nước bỗng trở thành những lời thầm thì nhỏ bé:
“Thầm thì với ai ngồi dưới trúc
Nghe thấy ý vị và thơ ngây”
Câu thơ phản ánh tính tượng trưng, siêu thực trong thơ Hàn Mặc Tử. Đại từ “ai” xuất hiện như “bóng ai đậu bến sông trăng ấy” (Đây thôn Vĩ Dạ) đầy bí ẩn. “Tiếng hát” vốn vang xa khắp núi rừng nay chỉ dành cho “ai”. Đó có thể là người thương, cũng có thể là với chính bản thân mình. Để rồi, khi tâm tình, se chia, con người có thể lắng nghe được những “ý vị và thơ ngây” trong lòng mình. Tuy nhiên, câu thơ cũng mang theo nỗi buồn, niềm nuối tiếc của người thơ trước “mùa xuân chín”. Bởi “xuân chín” rồi cũng là lúc “xuân tàn”, cái đẹp rồi cũng sẽ tàn phai. “Đám xuân xanh ấy” rồi cũng “theo chồng để bỏ cuộc vui”. Tuổi xuân tươi đẹp của người thiếu nữ rồi cũng có điểm kết. Ta thấy dâng lên trong lòng nhà thơ một nỗi niềm bâng khuâng, xao xuyến, muốn niều giữ cái hương sắc tươi đẹp của cuộc đời. Để rồi, kết thúc bài thơ, Hàn Mặc Tử hoá thân trong một người “khách xa”, bày tỏ nỗi nhớ nhung của mình:
Phần giới thiệu của tôi kết thúc ở đây. Xin cảm ơn cô và các bạn đã lắng nghe. Nếu có câu hỏi và thắc mắc gì, mong mọi người hãy đề đạt. Tôi rất mong có thể trao đổi và giải đáp những băn khoăn của mọi người.
3. Giao lưu
* Người tham gia:
- Chia sẻ những điểm bạn thấy phù hợp và thú vị trong bài thuyết trình.
- Nêu những điểm vẫn gây băn khoăn ở bài thuyết trình; góp ý, bổ sung một số nội dung giúp bài nói hoàn thiện hơn. Có thể dựa vào kiến thức ngôn ngữ trong bài để trao đổi về nội dung và các phân tích của người nói.
- Đưa ra quan điểm hoặc cảm nhận khác nhau của mình đối với bài thuyết trình.
- Có thể đặt một số câu hỏi để người nói chia sẻ thêm cảm xúc về bài thuyết trình.
* Người diễn:
- Đáp ứng các câu hỏi từ phía khán giả.
- Thể hiện sự nhiệt tình tiếp thu đối với các đề xuất hợp lý, nghiêm túc.
- Tự đánh giá phần thuyết trình của mình và chia sẻ thêm về phong cách trình bày đã lựa chọn.
- Phản hồi và trao đổi với các ý kiến khác với tinh thần tôn trọng và sự quan tâm.
Lưu ý: Cả người diễn và khán giả cần bổ sung các yêu cầu cần thiết khi giới thiệu, đánh giá về một tác phẩm thơ.
- Trao đổi trực tiếp hoặc sử dụng bảng sau để đánh giá phần thuyết trình của người diễn: