Người ta thường thấy hay đi về trên đại lộ Temple và trong khu vực Château-d’Eau, có một cậu bé nhỏ khoảng mười một, mười hai tuổi, với một nụ cười tươi sáng trên môi và trái tim đầy lòng tin vào cuộc sống. Cậu bé đó mặc một chiếc quần dài và một chiếc áo ngắn, nhưng không phải là của bố mẹ cậu. Bộ quần áo đó là của những người từ thiện đã biếu tặng cậu. Mặc dù vậy, cậu bé vẫn có bố mẹ! Nhưng bố cậu không quan tâm đến cậu và mẹ cậu cũng không yêu thương cậu. Cậu bé đó là một trong những trường hợp đáng thương nhất, có bố mẹ nhưng vẫn mồ côi. Cậu bé cảm thấy không nơi nào đủ ấm áp như đường phố. Những viên gạch trải đường không cứng cáp bằng trái tim mẹ và những ánh nhìn của người qua đường cũng không lạnh lùng như ánh mắt của bố cậu. Bằng một cú đá, bố mẹ đã đẩy cậu vào cuộc sống và từ đó, cậu bay đi.
Đó là một cậu bé vui vẻ, nhanh nhẹn, tinh ranh, yêu thích chế giễu nhưng cũng mảnh mai yếu đuối. Cậu đi đến đâu, làm gì, cậu cũng hát, cười và đôi khi làm những trò tinh nghịch. Cậu bé ấy không có nhà cửa, không có thức ăn, không có lửa ấm, không có ai quan tâm, nhưng cậu bé vui vẻ vì cậu có tự do. Mọi người trong khu vực thường gọi cậu là Gavroche.
Nhà nhưng không phải là nơi ở
Mặc dù bị bố mẹ 'đuổi ra khỏi nhà' như vậy, nhưng đôi khi mỗi hai, ba tháng, cậu bé lại nói: 'Chắc phải ghé thăm ông bà già một chút thôi!' Và rồi cậu rời khỏi đại lộ, rời xa những trận xiếc, quận Saint-Martin, băng qua cầu, ra ngoại ô đến khu Salpêtrière, đến đúng căn nhà số 50-52, căn nhà Gorbeau kênh rãnh.
Căn nhà đó thường trống trải, không người ở và luôn treo biển 'Có Phòng Cho Thuê' nhưng ít khi có người thuê. Những người ở đây, như lệ thường thấy ở Paris, hoàn toàn không quen biết nhau, không có mối quan hệ gì với nhau, tất cả đều thuộc hạng nghèo khổ.
Những người nghèo nhất trong số những người thuê này là một gia đình bốn người: một người cha, một người mẹ và hai cô con gái đã lớn. Cả bốn người sống chung trong một phòng nhỏ tối tăm. Gia đình đó nhìn qua không có gì đặc biệt ngoài sự cơ cực cùng đói khổ. Người cha khi thuê phòng tên là Jondrette. Sau khi đã chuyển vào, ông Jondrette đã nói với bà chủ nhà đồng thời là người trông coi cổng:
- Bà ơi! Nếu có ai đến hỏi một người Ba Lan, một người Ý hoặc một người Tây Ban Nha ở đây, hãy chỉ họ đến gặp tôi nhé!
Đó chính là gia đình của cậu bé nghèo khổ và vui vẻ đó. Cậu bé trở về đó và nhìn thấy sự cơ cực, tình trạng khốn khổ đó và buồn thảm hơn nữa là không có nụ cười. Nhà bếp lạnh lẽo, lòng người cũng lạnh lẽo. Khi cậu bước vào phòng, họ hỏi: 'Con đến từ đâu?' Cậu trả lời: 'Ở ngoài đường.' Khi cậu ra khỏi nhà, họ hỏi: 'Con đi đâu?' Cậu trả lời: 'Đi ra ngoài đường.' Mẹ cậu hỏi: 'Vậy con đến đây để làm gì?' Mỗi lần đều chỉ là những câu hỏi đó và câu trả lời như vậy. Cậu bé về nhà và lại ra đi trong nháy mắt.
Cậu bé sống không có chút tình thương yêu, giống như những bóng cỏ khô khan trong hang động tối om. Cậu không oán trách, cũng không đau lòng. Cậu không biết một người cha, một người mẹ nên như thế nào với con cái. Nhưng bà mẹ thì lại rất yêu thương hai chị gái của cậu.
[…]
Thứ Sáu hay thứ Ba?
Trong lúc đó, cậu bé Gavorche cảm thấy rét run trong bộ quần áo rách nát đang đứng trước cửa hàng thợ cạo. Dù đang đói và lạnh rét nhưng gương mặt của cậu vẫn tươi cười. Cậu chăm chú nhìn bức tượng cô dâu lộng lẫy. Cô dâu mặc chiếc váy cưới màu đỏ rực rỡ, mái tóc vàng óng ánh hoa trắng lấp lánh. Bức tượng lộng lẫy quay vòng giữa hai chiếc đèn dầu và cười đẹp với mọi người đi qua. Gavorche tỏ ra mình đang ngắm nhìn vẻ đẹp của cô dâu nhưng thực tế là cậu đang cân nhắc liệu có nên 'mượn' một chiếc bánh xà phòng để kiếm tiền ăn không. Cậu có tài năng 'nhặt trộm', mà cậu gọi là 'sửa râu cho ông thợ cạo'. Trong khi nhìn bức tượng, cậu còn nhìn lén chiếc bánh xà phòng và lẩm bẩm: 'Hôm nay là thứ Ba... Không, không phải thứ Ba, ừ, chắc chắn là thứ Ba...' Thực ra ngày đó là thứ Sáu, có lẽ cậu bé nhớ về bữa ăn cuối cùng của mình vào thứ Ba. Đó là ba ngày cậu chưa được ăn gì cả. Bên ngoài trời là gió lạnh, còn trong cửa hàng là nơi ấm áp với lò sưởi. Lúc này, thợ cạo đang bận cạo râu cho khách hàng. Thỉnh thoảng, ông nhìn ra ngoài để chú ý đến Gavorche. Gavorche đặt hai tay vào túi, huýt sáo mặc kệ nhưng đầu óc cậu đã suy nghĩ về điều gì từ lâu rồi.
Cuộc sống vốn mang tính chất không chắc chắn
Bất ngờ có hai đứa trẻ tiến lại gần. Một đứa khoảng bảy tuổi, một đứa khoảng năm tuổi. Cả hai đều ăn mặc gọn gàng. Họ rút tay vào túi quần và đẩy cửa để vào cửa hàng. Họ nói chuyện nhỏ nhặt, có lẽ là xin ăn. Đứa bé nhỏ khóc lóc trong khi nói, còn đứa lớn thì càu nhàu. Người phụ trách cạo râu quay lại, bộ mặt tức giận. Tay phải vẫn cầm dao, ông đẩy đứa lớn ra ngoài bằng tay trái và đẩy đứa nhỏ ra ngoài bằng đầu gối, sau đó đóng cửa lại.
Trời ơi! Cái lạnh này cứ như đồ quỷ vậy!
Hai đứa bé khóc nhè lên, bước chân vẫn tiếp tục. Bầu trời đang dần âm u, những giọt mưa rơi như tiếng đàn. Thấy vậy, Gavorche không lòng được mà gọi theo chúng:
Hé lô! Hai đứa nhỏ kia! Sao mày lại khóc thế?
Chúng tôi không có nơi để ngủ. - Đứa trẻ đáp.
Ừ, thế à? Cứ tưởng gì! Mà còn khóc được nữa. Hai đứa này còn trẻ con quá!
Chú nói với giọng người trưởng thành, vừa nhẹ nhàng vừa cảm động, toát lên sự ấm áp và quan tâm:
Hai đứa nhỏ ơi, đừng khóc nữa! Đi theo chú đi!
Dạ vâng! - Đứa lớn đáp.
Vậy là hai đứa trẻ bước theo Gavorche như là đi theo một vị tổng giám mục. Chúng không còn khóc nữa. Gavorche dẫn dắt chúng dọc phố Saint-Antoine, hướng về nhà ngục Bastille. Gavorche vừa đi vừa liếc nhìn hiệu thợ cạo một cách căm giận. Chú lầm bầm:
Thằng đó thực sự là một kẻ vô tâm đến tận cùng!
Sau đó, chú nói thêm một cách tức giận:
Đừng gọi thằng đó là ngáo ộp, đó là một con rắn độc. Ông thợ cạo ấy! Ta sẽ gọi thợ khóa đến đeo mày cái lục lạc ở đuôi.
[…]
Chào tạm biệt chiếc khăn quàng ấm áp trong đêm lạnh giá
Đi thêm một đoạn nữa, đoàn của Gavorche gặp một cô bé ăn xin, khoảng mười ba, mười bốn tuổi đứng đóng băng với chiếc váy ngắn cỡn cỡn để lộ hai đầu gối. Cô bé đã lớn, chiếc váy đó thực sự làm cản trở cho cô ấy, nhất là khi thời tiết lạnh như vậy. Gavorche dừng lại và nói:
Con bé thật là đáng thương! Chắc có lẽ nó cũng không có quần áo. Thôi, hãy dùng cái này tạm thời đi.
Sau khi nói xong, Gavorche lấy ngay tấm khăn len ấm áp đang quấn quanh cổ, ném lên đôi vai gầy gò tím ngắt của cô bé ăn xin. Chiếc khăn len trên vai cô bé nhanh chóng trở thành một chiếc khăn quàng phụ nữ. Cô bé nhận lấy chiếc khăn quàng, nhìn Gavorche với ánh mắt ngạc nhiên, quên luôn cả việc cảm ơn. Gavorche cởi khăn quàng ra, càng cảm thấy rét hơn. Chú vừa than thở về cái lạnh thì một cơn mưa bất ngờ đổ xuống.
[…]
Buổi tối, chỉ có một xu sẻ ba
Từ khi trước đến nay, Gavorche đã kiểm tra từng túi túi, từng ngăn ngăn của bộ quần áo của mình. Cuối cùng, chú nhìn lên, mỉm cười hài lòng, nhưng ánh mắt của chú toả sáng như một người chiến thắng.
Hai đứa nhỏ đừng lo nữa! Đồ này đủ cho cả ba chúng ta ăn tối.
Chú vừa nói vừa móc túi lấy ra một đồng xu. Hai đứa nhỏ chưa kịp ngạc nhiên thì Gavorche đã đẩy chúng vào hàng bánh. Chú đặt đồng xu lên bàn và gọi to:
Bồi! Một bánh xăng tim!
Năm bánh xăng tim chỉ mất một xu nhưng Gavorche nói thế để trang trọng. Người bán hàng là chủ cửa hàng, lấy ra một chiếc bánh và một con dao. Gavorche nhắc nhở:
Bồi! Cắt thành ba phần.
Sau đó, chú phát biểu thêm một cách trang trọng:
Bọn này là ba người.
[…]
Trong ba phần, chú chọn phần bé nhất. Cả ba đều đói meo, thậm chí cả Gavorche cũng vậy. Chúng ăn hết sạch và đứng ở cửa hàng, chật ních. Chủ cửa hàng, vì đã nhận tiền, nhìn chúng với vẻ bực tức. Gavorche hiểu và nói:
Chúng ta quay về phố đi.