(Đánh Giá của Ông Trưởng FPT - PGS. TS. Trương Gia Bình)
Đây là một quyển sách tuyệt vời. Từ nội dung đến cách trình bày đều rất xuất sắc. Nó không chỉ giúp ta hiểu rõ hơn về bản thân mình mà còn mở ra những tri thức mới về hành vi con người. Với phong cách viết đơn giản nhưng sâu sắc, giáo sư Daniel Kahneman dẫn dắt chúng ta đi qua hàng loạt thí nghiệm tâm lý xã hội, đưa ra những nhận định sâu sắc về tư duy và hành vi của con người. Cuốn sách này thực sự đáng đọc và đem lại niềm vui từ việc học hỏi.
#Tác Giả:
Daniel Kahneman, sinh năm 1934, là một nhà tâm lý học người Mỹ gốc Israel, đoạt giải Nobel Kinh Tế năm 2002. Ông đã dành nhiều năm để nghiên cứu về tâm lý học hành vi và có những đóng góp to lớn trong lĩnh vực này.
Cuốn sách Tư Duy Nhanh Và Chậm của Daniel Kahneman đã nhận được nhiều giải thưởng danh giá như Sách Khoa Học Xuất Sắc nhất của Học Viện Khoa Học Quốc Gia năm 2012 và Sách Hay Nhất năm 2011 do Tạp Chí Thời Báo New York bình chọn. Nó cũng được đánh giá cao bởi tạp chí Los Angeles năm 2011.
Tổng Kết Các Nghiên Cứu Đỉnh Cao Nobel - Tiến Sĩ Nguyễn Văn Tuấn
Trong Tác Phẩm 'Tư Duy Nhanh Và Chậm', Kahneman Miêu Tả Hai Hệ Thống Hoạt Động của Não. Ông Gọi Đó Là Hệ Thống 1 và Hệ Thống 2. Hệ Thống 1, Còn Được Gọi Là Cơ Chế Suy Nghĩ Nhanh, Thường Sử Dụng Cảm Tính, Rập Khuôn, và Tiềm Thức. Hệ Thống 2, Hay Còn Gọi Là Cơ Chế Suy Nghĩ Chậm, Đòi Hỏi Nỗ Lực, Sử Dụng Ít Hơn, Suy Luận Logic, và Ý Thức. Trong Một Loạt Các Thí Nghiệm Tâm Lý, Kahneman và Tversky Chứng Minh Rằng Con Người Thường Sử Dụng Hệ Thống Suy Nghĩ Nhanh Hơn Là Hệ Thống Suy Nghĩ Chậm. Phần Lớn Nội Dung Của Cuốn Sách Đều Nhằm Chỉ Ra Những Sai Lầm Trong Hệ Thống 1.
Suy Nghĩ Nhanh, Theo Cách Mô Tả Của Người Việt, Là Nhìn Mặt Mà Bắt Hình Dong. Điều Này Chỉ Ra Rằng Đó Là Một Cơ Chế Suy Nghĩ Dựa Trên Những Tín Hiệu Ban Đầu, Thay Vì Suy Luận Cẩn Thận và Lập Luận Logic. Có Thể Liên Tưởng Về Cơ Chế Suy Nghĩ Nhanh Qua Vài Ví Dụ Cụ Thể. Khi Lái Xe Đến Một Ngã Tư, Chúng Ta Thường Chỉ Cần Nhìn Vào Ánh Mắt của Người Lái Xe Khác Để Quyết Định Có Nên Băng Qua Đường Hay Không. Hoặc Khi Nghe Thông Tin Rằng Tỷ Lệ Mắc Bệnh Ung Thư Ở Vùng Nông Thôn Cao Hơn Vùng Thành Thị, Chúng Ta Có Thể Nghĩ Ngay Rằng Đó Là Vì Dịch Vụ Y Tế Ở Vùng Nông Thôn Kém Hơn. Tuy Nhiên, Nếu Có Thông Tin Rằng Tỷ Lệ Mắc Bệnh Ung Thư Ở Vùng Nông Thôn Thấp Hơn Vùng Thành Thị, Chúng Ta Có Thể Nghĩ Rằng Cư Dân Nông Thôn Không Sống Trong Môi Trường Ô Nhiễm Như Cư Dân Thành Thị, Nên Có Nguy Cơ Mắc Bệnh Ít Hơn. Việc Người Dân Di Tản Khỏi Khu Vực Sông Tranh II Có Thể Là Một Quyết Định Theo Cơ Chế Suy Nghĩ Nhanh. Đây Chính Là Cơ Chế Suy Nghĩ Nhanh Giúp Con Người Tồn Tại Qua Hàng Triệu Năm, Mặc Dù Trong Thực Tế Có Rất Nhiều Sai Lầm.
Các Sai Lầm Trong Hệ Thống 1 Được 'Chứng Minh' Qua Một Loạt Các Thí Nghiệm Rất Nổi Tiếng. Có Lẽ Thí Nghiệm Nổi Tiếng Nhất Là Vấn Đề Linda. Trong Thí Nghiệm Này, Những Đối Tượng Tham Gia Nghiên Cứu Được Cung Cấp Thông Tin Về Một Phụ Nữ (Hư Cấu) Tên Là Linda, 31 Tuổi, Độc Thân, Tính Tình Thẳng Thắn, Rất Thông Minh, và Thời Còn Là Sinh Viên Triết Ở Đại Học. Những Người Tham Gia Nghiên Cứu Được Hỏi Rằng Linda Là:
(a) Một Nhân Viên Phục Vụ Khách Hàng Ở Ngân Hàng (Bank Teller);
hoặc
(b) được xác định là một nhân viên ngân hàng và ủng hộ phong trào bình đẳng giới (feminist).
Hầu hết (85%) người tham gia nghiên cứu chọn câu trả lời (b) là lựa chọn có khả năng cao nhất. Tuy nhiên, câu trả lời này vi phạm quy tắc xác suất mà Kahneman và Tversky gọi là nghịch lý gắn kết (Conjunction fallacy).
Trong một thí nghiệm khác, Kahneman và Tversky tiến hành với một nhóm bác sĩ có kinh nghiệm trên 15 năm về một vấn đề rất đơn giản như sau: Trong một cộng đồng có 1% phụ nữ mắc bệnh ung thư. Các nhà nghiên cứu có một phương pháp xét nghiệm rất chính xác để phát hiện bệnh. Với phương pháp này, đối với những người mắc bệnh, xét nghiệm sẽ cho kết quả dương tính 95%; đối với những người không mắc bệnh, xét nghiệm sẽ cho kết quả âm tính 80%. Nếu một phụ nữ trong cộng đồng được chọn ngẫu nhiên để xét nghiệm và có kết quả dương tính, khả năng mà phụ nữ đó mắc bệnh ung thư là bao nhiêu? Đa số bác sĩ cho rằng khả năng mắc bệnh là 90%. Tuy nhiên, câu trả lời này sai. Sai bởi vì bác sĩ (hoặc chúng ta nói chung) lẫn lộn giữa xác suất mắc bệnh nếu kết quả dương tính với xác suất có kết quả dương tính nếu người đó mắc bệnh. Kahneman gọi điều này là nghịch lý tỷ lệ nền, và hậu quả là nhiều bệnh nhân bị chẩn đoán sai vì bác sĩ dùng cơ chế suy nghĩ nhanh.
Trong một thí nghiệm nổi tiếng, Kahneman và Tversky cho đối tượng lựa chọn một trong hai bao thư. Bao thư thứ nhất có số tiền chắc chắn là 200 đô-la; và bao thư thứ hai yêu cầu đối tượng tung một đồng xu, nếu mặt sấp xuất hiện, họ sẽ nhận được 400 đô-la, còn nếu mặt ngửa xuất hiện thì không nhận được gì. Kết quả cho thấy phần lớn đối tượng tham gia nghiên cứu chọn bao thư thứ nhất (mặc dù hai lựa chọn này thực sự có giá trị kỳ vọng như nhau)! Kết quả này cho thấy chúng ta ưa thích sự chắc chắn. Xu hướng này đã dẫn Kahneman và Tversky phát triển lý thuyết tương lai hẹp, và là một công trình được trao giải Nobel Kinh tế năm 2002.
Một thí nghiệm độc đáo cho thấy rằng chúng ta dễ bị ảnh hưởng bởi con số lớn. Đối tượng nghiên cứu được đưa ra 2 lựa chọn: (a) phẫu thuật A, 90% sống sót; (b) phẫu thuật B, 10% tử vong. Phần lớn đối tượng chọn phẫu thuật A. Một thí nghiệm tương tự, trong đó một nhóm được cho biết xác suất mắc bệnh là 1 trên 10, một nhóm khác được cho biết xác suất mắc bệnh là 100 trên 1000. Kết quả cho thấy nhóm thứ hai có xu hướng chấp nhận điều trị hơn nhóm thứ nhất, mặc dù nguy cơ mắc bệnh của hai nhóm là như nhau. Kahneman và Tversky gọi đó là hiệu ứng khung (framing effect).
Chúng ta thường đánh giá vấn đề dựa trên những kinh nghiệm nổi bật gần đây nhất, thay vì xem xét toàn bộ quá trình theo thời gian. Viết đến đây tôi bất ngờ nhớ đến một nhận định của Nhạc Sĩ Đức Huy rằng người ca sĩ có thể bắt đầu bài hát không tốt, nhưng khi kết thúc bài hát được biểu diễn thành công, khán giả sẽ coi đó là một buổi biểu diễn thành công. Kahneman xem đây là điểm mà chúng ta rất giống chuột.
Khi một nhà khoa học được công nhận về một lĩnh vực cụ thể (như đoạt giải Nobel y học), thường có suy luận rằng người đó cũng thông hiểu về nhiều vấn đề khác, mặc dù không phải lúc nào cũng đúng. Điều này giải thích vì sao khi cần giải quyết một vấn đề xã hội, thường tìm đến những người nổi tiếng trong lĩnh vực điện ảnh, khoa học, thể thao,... Kahneman gọi là Hiệu ứng hào quang (halo effect) cũng là một cơ chế suy nghĩ theo Hệ thống 1.
Cuốn sách hoặc nghiên cứu của Kahneman đều có ý nghĩa quan trọng đối với các nhà hoạch định chính sách. Bài học chính là khi đưa ra các chính sách hoặc quy định ảnh hưởng đến cộng đồng, cần phải dựa trên chứng cứ một cách cẩn thận, không nên quá cảm tính và vội vã (theo hệ thống suy nghĩ nhanh), vì có thể dẫn đến những sai lầm. Chúng ta vẫn nhớ trường hợp cấm buôn bán mắm tôm chỉ vì tin rằng nhiều người bị bệnh tả từng ăn mắm tôm, và kết luận rằng mắm tôm là nguyên nhân gây ra bệnh tả. Điều này có thể coi là một cách suy nghĩ theo Hệ thống 1.
Không chỉ có ý nghĩa đối với các nhà hoạch định chính sách, cuốn sách còn hữu ích cho những người thực thi pháp luật. Ý nghĩa từ các hiệu ứng như hiệu ứng Linda, hiệu ứng khung, nghịch lý tỷ suất nền,... là không thể và không nên dựa vào bề ngoài mà kết luận, hoặc chỉ dựa vào tín hiệu ngoại vi mà kết tội hoặc phân biệt đối xử với một cá nhân. Có trường hợp mà 60% các tội phạm thiếu niên xuất phát từ gia đình ly hôn hoặc đổ vỡ, và kết luận rằng ly hôn là một nguyên nhân hoặc nguồn gốc của tội phạm thiếu niên là không hợp lý và có thể dẫn đến những sai lầm. Đây cũng là một dạng suy luận phổ biến (prosecutor fallacy). Suỵt luận xảy ra vì sự lười biếng suy nghĩ, và vì lười biếng suy nghĩ nên chỉ sử dụng Hệ thống 1 mà không sử dụng Hệ thống 2.
Ngày nay, khi đến cửa hàng sách, chúng ta dễ dàng tìm thấy nhiều sách về hành vi con người. Nhiều cuốn sách mang lại những ví dụ sống động kèm theo những thí nghiệm tiên tiến, sau đó giải thích cần thay đổi chính sách, luật pháp, và cách kinh doanh. Nhưng cuốn Từ duy nhanh và chậm khác biệt, vì nó tập trung hoàn toàn vào khoa học, với những trải nghiệm cá nhân của tác giả. Mục tiêu của cuốn sách, theo Kahneman viết, là làm cho mọi người hiểu biết sâu hơn khi phải đưa ra quyết định trong cuộc sống. Tác giả còn viết rằng ông hi vọng cuốn sách sẽ giúp độc giả trong những cuộc trò chuyện và trao đổi - hoặc theo lời của Nguyễn Du là mua vui cũng được một vài trống canh. Tôi nghĩ tác giả đã vượt xa mục tiêu khiêm tốn đó. Đây là cuốn sách mà bất kỳ ai đọc cũng sẽ thấy hứng thú ngay từ chương đầu và kết thúc với sự thư giãn, giúp chúng ta hiểu rõ hơn về bản thân mình. Một cuốn sách như vậy xứng đáng được đặt trên giá sách của những người quan tâm đến hành vi và kinh tế.
Xin trân trọng giới thiệu!
Bắt đầu
Tôi tin rằng mỗi tác giả khi viết một cuốn sách, họ luôn ấn tượng về những lợi ích mà độc giả sẽ nhận được sau khi đọc nó. Đối với tôi, lợi ích của cuốn sách này được minh họa dưới hình ảnh của chiếc bàn uống nước trong các văn phòng - nơi mọi người thường ngồi trò chuyện, chia sẻ những câu chuyện phiếm. Tôi hy vọng, cuốn sách này sẽ mở ra một cửa sổ văn phòng, làm phong phú vốn từ vựng cho độc giả mỗi khi họ đối diện với quyết định nhanh trong cuộc sống, như khi thảo luận về ý kiến của người khác, hoặc các chính sách mới trong công ty, hoặc lựa chọn đầu tư của một đồng nghiệp.
Để trở thành một bác sĩ giỏi, người thầy thuốc cần phải hiểu rõ về nhiều loại bệnh, triệu chứng trước và sau khi bệnh phát sinh, cũng như phải có khả năng dự đoán nguyên nhân và hậu quả của bệnh, thậm chí có thể đưa ra phác đồ điều trị. Học y đặt ra yêu cầu phải am hiểu thuật ngữ y học. Hiểu biết sâu sắc về các phản đoán và lựa chọn đòi hỏi chúng ta phải sử dụng vốn từ vựng phong phú hơn so với ngôn ngữ hàng ngày. Một điểm tích cực của các câu chuyện phiếm là chúng giúp chúng ta nhận biết những sai lầm mà con người thường mắc phải.
Nếu ai đó hỏi bạn đang nghĩ gì, bạn có thể trả lời câu hỏi một cách dễ dàng. Bạn tin rằng mình biết điều gì đang diễn ra trong đầu, thường là có một ý nghĩ chủ đạo, sau đó suy nghĩ này tiếp tục kết nối với suy nghĩ khác. Tuy nhiên, đó không phải là cách hoạt động duy nhất, cũng không phải là phương thức hoạt động điển hình của trí não. Hầu hết các ấn tượng và suy nghĩ của bạn thường diễn ra trong trí não một cách mà bạn không biết. Rất nhiều quyết định được hình thành một cách lặng lẽ bên trong đầu và khi trí óc hoạt động, nó sinh ra những cảm xúc và trực giác.
Cuốn sách này nghiên cứu sâu về sự sai lệch của trực giác trong trí óc con người. Tuy vậy, không phải mục đích làm suy yếu nhận thức của con người, giống như các nghiên cứu y học không muốn làm suy yếu sức khỏe của con người. Thông thường, hầu hết chúng ta đều khỏe mạnh và hầu hết phán đoán của chúng ta đều chính xác. Chúng ta tự quản lý cuộc sống của mình, nên tin tưởng vào những ý kiến và cảm xúc của mình, cũng như sở thích cá nhân. Nhưng không phải lúc nào cũng như vậy, chúng ta cũng có thể tự tin ngay cả khi mắc sai lầm.
Mục đích của tôi khi đề cập đến câu chuyện phiếm ở trên là nâng cao khả năng nhận thức của bản thân khi đưa ra các dự đoán và lựa chọn của người khác bằng cách cung cấp một ngôn ngữ phong phú hơn, chính xác hơn khi thảo luận. Vì ít nhất trong một số trường hợp, một chẩn đoán chính xác có thể giúp giảm thiểu thiệt hại từ các lựa chọn sai lầm.
NGUỒN GỐC
Cuốn sách này giới thiệu những hiểu biết của tôi về việc phán đoán và ra quyết định, hai lĩnh vực đã được các nhà tâm lý học nghiên cứu sâu suốt vài thập kỷ qua. Bắt đầu từ một buổi thảo luận vào năm 1969, khi tôi mời Amos - một đồng nghiệp của mình, đến tham gia buổi nói chuyện tại trường Đại học Hebrew ở Jerusalem - nơi tôi đang giảng dạy. Amos Tversky, một nhà nghiên cứu nổi tiếng về quyết định, thật sự là ngôi sao sáng ở mọi lĩnh vực mà ông tham gia.
Bài giảng của Amos trình bày một chương trình nghiên cứu đang tiến hành tại Đại học Michigan, với câu hỏi: Liệu con người có phải là những nhà thống kê trực giác tài ba? Amos đã khẳng định rằng con người có khả năng đó. Cuối cùng, chúng tôi kết luận rằng đáp án là Không, và đây là câu trả lời hợp lý nhất.
Amos và tôi quyết định tiếp tục nghiên cứu về thống kê trực giác. Chúng tôi nhận ra rằng kết quả dựa trên trực giác của chúng tôi vẫn còn nhiều sai lầm, và chúng tôi cần thêm nhiều dữ liệu hơn để làm cho nghiên cứu trở nên chính xác hơn.
Chúng tôi đã tiến hành một cuộc điều tra và phát hiện rằng các nhà nghiên cứu thường phóng đại quá mức khả năng kết quả của một thí nghiệm, và số lượng mẫu quá nhỏ. Cả Amos và tôi đều cảm thấy thú vị khi làm việc cùng nhau, và niềm vui đó đã giúp chúng tôi trở nên kiên nhẫn hơn trong công việc.
Trong quá trình viết báo cáo, cả Amos và tôi đều cảm thấy thú vị khi được làm việc cùng nhau. Anh ấy luôn hài hước, làm tôi cũng trở nên vui tính hơn. Một trong những niềm hạnh phúc lớn nhất khi làm việc với Amos là anh ấy luôn nhìn ra những điểm mạnh của các ý tưởng của tôi.
Amos có tính cách logic và lý thuyết, trong khi tôi lại cảm tỉnh và là người hướng nội tâm. Điều này giúp chúng tôi tạo ra nhiều ý tưởng mới. Dù giống nhau đủ để hiểu nhau nhưng lại khác biệt đủ để làm cho cuộc trò chuyện thú vị.
Nghiên cứu của chúng tôi thường diễn ra qua các cuộc trò chuyện, trong đó chúng tôi kiểm chứng những ý tưởng bằng trực giác. Chúng tôi không tìm kiếm câu trả lời đúng mà thay vào đó là phân tích các câu trả lời bằng cách dựa vào trực giác.
Một lần, chúng tôi đã nhận ra rằng cả hai đều có những suy nghĩ ngộ nghĩnh về tương lai của những đứa trẻ mà chúng tôi biết. Dù có ngớ ngẩn nhưng chúng thực sự thú vị. Điều này đã giúp chúng tôi phát triển giả thuyết về tầm quan trọng của sự tương đồng trong dự đoán.
Chúng tôi đã tạo ra một ví dụ về một cậu bé có những đặc điểm tương tự với Steve, và nhận thấy rằng mọi người thường dự đoán cậu sẽ làm nghề gì dựa trên sự tương đồng.
Đặc điểm tính cách của Steve khiến mọi người dự đoán rằng cậu sẽ làm thủ thư, mặc dù dựa vào số liệu thống kê thì khả năng cậu sẽ làm nông dân cao hơn. Điều này cho thấy sự phụ thuộc vào trực giác và kinh nghiệm cá nhân trong dự đoán.
Những người tham gia thí nghiệm thường phụ thuộc vào sự tương đồng khi đưa ra dự đoán, thay vì dựa vào số liệu thống kê. Điều này dẫn đến các sai lệch trong dự đoán của họ.
Trích từ: Thùy Dung - Sách của Tôi