Triết gia George Berkeley hiện đang suy tư về một vấn đề nan giải.
Ông đang nảy ra một ý tưởng gây tranh cãi về vũ trụ được tạo thành từ ý thức, bởi vì theo ông, ý thức mới là nguồn gốc của vũ trụ. Theo ông, việc duy nhất quyết định sự tồn tại của một thực thể là ý thức mà con người có về nó.
Tuy nhiên, lại có một luận điểm phản đối như sau:
Nếu vạn vật trong thế giới vật chất chỉ tồn tại khi chúng được con người nhận thức, thì khi con người không còn ở đó, chúng sẽ biến mất không? Nếu ta rời khỏi văn phòng và không còn nhận thức về bàn, máy tính và cốc nước, liệu chúng có biến mất không và lại xuất hiện khi ta quay trở lại không?
Ý tưởng này có thể làm lung lay bất kỳ sự kiện logic nào….
Nếu không thể giải thích được cho quan điểm của bản thân, Berkeley chắc chắn sẽ gặp rắc rối lớn! Cuối cùng, ông đã làm thế nào để bảo vệ cho quan điểm và niềm tin vững chắc của mình??
Cụ thể, theo quan điểm của Berkeley, mọi kiến thức trên thế giới chỉ tích lũy được từ kinh nghiệm cá nhân, và rằng, vật chất không tạo nên vũ trụ, mà là ý thức của con người.
Vì thế, nếu chúng ta có thể nhìn thấy và cảm nhận được chiếc điện thoại của mình, thì điều đó chứng tỏ điện thoại đang tồn tại. Nếu nhìn ra khỏi cửa sổ và thấy bầu trời xanh mát, thì chắc chắn bầu trời là màu xanh. Và nếu tình cờ bắt gặp một người đàn ông đang đi lại ngoài cửa, thì đó là minh chứng cho sự tồn tại của anh ta.
Berkeley đã tóm gọn quan điểm của mình bằng một cụm từ Latin 'esse est percipi', có nghĩa là 'tồn tại là được nhận thức.'
Khi nói đến quan điểm này, Berkeley khá tự hào về bản thân, ông nhẹ nhàng loại bỏ những lời lẽ không đáng có, với một tinh thần kiêu hãnh vô cùng.
Ông hiểu rõ quan điểm của mình. Suy nghĩ và ý tưởng là hai yếu tố quan trọng trong việc cai trị thế giới này, thế giới vật chất chỉ tồn tại do con người có trí tuệ để nhận thức về chúng. Nếu không có trí tuệ, không có sự vật hiện tượng nào có thể được xác định, do đó, sự tồn tại của mọi vật đều phụ thuộc vào suy nghĩ và ý tưởng của chúng ta.
Dễ dàng nhận thấy tranh cãi về kết luận của Berkeley hiện nay, chủ yếu là do mọi người nhận ra rõ sự không tin cậy của tâm trí.
Chúng ta nhận thức về các định kiến, các mô hình tư duy, và tất cả những điều tốt đẹp khác, từ đó, nhận ra rằng trình độ nhận thức của chúng ta về thế giới còn hạn chế, và rằng, chúng ta cần phải tự kiểm điểm lại mọi quan điểm của mình để tiếp cận với sự thật cuối cùng.
Ngay cả vào thời Berkeley, cũng có một quan điểm phản đối nổi tiếng, đặt ra thách thức với giá trị quan điểm của ông. Thực tế, nếu Berkeley không thể bảo vệ được luận điểm của mình, có thể mọi lập luận của ông trước đó sẽ bị phủ nhận.
Quan điểm đối lập này rất đơn giản:
Nếu tất cả vạn vật trong thế giới vật chất chỉ tồn tại khi chúng được con người nhận thức, thì điều gì sẽ xảy ra khi con người không còn ở đó nữa? Liệu vạn vật có biến mất không?
Ví dụ, nếu tôi rời khỏi văn phòng để đi ra ngoài, thì bàn làm việc, máy tính và cốc nước tôi đang uống có còn tồn tại không?
Chúng sẽ biến mất tất cả, bởi vì khi tôi không còn nhận thức về chúng nữa, chúng sẽ lại hiện ra khi tôi trở lại phải không?
Ý tưởng này nghe như một thực tế có thể biến tấu mọi khái niệm chân lý.
Sau một thời gian tranh luận gay gắt, Berkeley quyết định đưa ra một kết luận vĩ đại như sau:
Khi tôi bước ra khỏi văn phòng, căn phòng và mọi đồ vật trong đó vẫn tồn tại, bởi vì luôn có một người ở lại để trông nom chúng.
Vậy người này luôn hiện diện khắp nơi này có nguồn gốc từ đâu?
Hãy thử đoán xem.
Đó chính là Thiên Chúa.
Tóm lại, theo suy luận của Berkeley, nếu một cây rụng xuống trong rừng mà không có ai ở đó để nhìn thấy, thì cây đó đã rơi xuống, vì Thiên Chúa đã chứng kiến nó.
Vai trò tích cực của Ngài cho phép mọi vật được nhận thức ở mọi thời điểm, kể cả khi không có sự hiện diện của con người.
Tôi cảm thấy thú vị khi Berkeley, một trong những triết gia ảnh hưởng nhất trong thời kỳ hình thành kỷ nguyên hiện đại, đưa ra một kết luận như vậy.
Không phải tôi đang chế giễu ý tưởng của Berkeley về Thiên Chúa hoặc quan điểm tôn giáo của ông, nhưng lý lẽ phản bác của ông nghe có vẻ như một sự tránh né tinh vi.
Thay vì phân tích lý do đằng sau lập luận phản đối đó và áp dụng nó vào nhiều trường hợp khác nhau, Berkeley chọn cách dừng lại và đưa Thiên Chúa ra làm giải pháp cuối cùng.
Bằng cách này, ông đã đưa ra một lập luận không thể bàn cãi hơn nữa, vì nếu tiếp tục tranh cãi, chúng ta sẽ phải chứng minh sự tồn tại của Thiên Chúa.
Đó là một lộ trình ít ai muốn khai thác, vì vậy, bằng cách sử dụng Thiên Chúa làm đáp án, Berkeley đã kết thúc cuộc tranh luận đó thành công.
Tôi xin được so sánh hành động này của ông với hình ảnh của một biển báo 'dừng suy nghĩ', với một cụm từ hay một từ có tác dụng ngắt đứt mạch lý logic.
Trước khi có biển báo này, con người luôn sẵn lòng khám phá sâu hơn với khả năng tư duy của mình, đo lường mọi con đường uốn cong là điều kiện cần để mở rộng hiểu biết.
Đó là điểm bắt đầu cho mọi cuộc thảo luận sâu sắc, nơi mọi giả thuyết có thể được thách thức, là điều kiện tiên quyết cho mọi quá trình nghiên cứu chân lý.
Nhưng kể từ khi loại biển báo này xuất hiện, lãnh thổ mà nó chiếm dụng đã trở thành một miền đất u tối, được che phủ bởi một tầng mây mù của sự chắc chắn không đúng chỗ.
Tấm biển khẳng định rằng, chúng ta nên bỏ qua một quan điểm, để không còn đi sâu vào quá trình tư duy nữa, thay vào đó, dựa vào niềm tin sâu sắc, những niềm tin không bao giờ biến đổi.
Điều này gợi nhớ tôi đến bộ phim Vua Sư Tử, khi Mufasa ngồi cùng Simba trên đỉnh đồi, quan sát vùng lãnh thổ. Mufasa nói với con rằng, mọi nơi nơi nơi mặt trời chiếu sáng là nơi tự do, và Simba không bao giờ được phép đặt chân vào những khu vực u tối.
Phép loại suy này cũng có thể áp dụng vào quá trình tư duy. Một bên, có một vùng đất được mặt trời chiếu sáng, với những suy nghĩ tự do, và mặt khác, có vùng lãnh thổ u tối, làm giảm sự tò mò.
Chia cắt giữa hai vùng lãnh thổ là một biển báo đỏ lớn, ghi là 'Biển dừng suy nghĩ'.
Đối với Berkeley, việc sử dụng hình ảnh của Chúa làm biển báo dừng không quá ngạc nhiên nếu ông là một linh mục hoặc một nhà giáo mục. Nhưng thậm chí với người không có tín ngưỡng, chúng ta vẫn có những biển báo dừng riêng, mang ý nghĩa tương tự như 'Chúa'.
Ví dụ, khi nói đến quá trình hình thành vũ trụ, một người có thể theo các quan điểm duy lý hoặc duy vật, xây dựng lý thuyết và mô hình phức tạp.
Tuy nhiên, mọi suy luận khám phá này cuối cùng đều dẫn đến một câu đố khó khăn vẫn chưa có lời giải:
Làm thế nào từ hư không có thể tạo ra mọi vật?
Và với câu hỏi này, con người ngay lập tức nghĩ đến điều quen thuộc nhất, từ gốc rễ của từ 'Chúa':
Mọi biển báo dừng đều có một điểm chung, đó là chúng được chấp nhận là lời giải thích hợp cho những người tham gia, nhưng lại bị coi là lý do không chính xác cho phe đối lập.
Những ai tin vào Thiên Chúa sẽ nói, Chúa sáng tạo vũ trụ, và sẽ châm chọc những quan điểm đối lập, như những người tin rằng vũ trụ bắt nguồn từ một vụ nổ lớn. Các nhà khoa học cũng có hành động tương tự, nhưng theo hướng ngược lại.
Kỳ diệu là, cả hai phe đều không hiểu tại sao một vật được sinh ra từ hư không, và vẫn lựa chọn biển báo dừng tương ứng là một lẽ lẽ.
Một khi tấm biển dừng này trở thành giải pháp mà mọi người chấp nhận cho một vấn đề khó khăn, chúng ta cảm thấy nó thực sự đáng tin cậy.
Điều này làm chúng ta hoài nghi về sự chắc chắn của bản thân, tạo ra một niềm tin sai lầm rằng, câu trả lời chúng ta nhận được là đúng nhất. Tôi đã nhận thấy hiện tượng này phổ biến trong kinh tế, khi một hệ thống kinh tế được tuyên bố là tốt nhất.
Ví dụ, những người sống ở các thành phố giàu có của Mỹ thường ủng hộ chủ nghĩa tư bản và tin rằng nó là phương thức tốt nhất. Người ta hoang mang khi nghe ai đó ủng hộ chủ nghĩa xã hội, như người ta nghe Mặt Trời xoay quanh Trái Đất.
Họ cảm thấy bối rối, mặc dù họ không hiểu rõ luận điểm mà họ đang ủng hộ. Hầu hết những người ủng hộ 'chủ nghĩa tư bản' sẽ không bao giờ đọc các tác phẩm của Adam Smith trong đời của họ.
Mặt trái là những người tin rằng 'tất cả các tập đoàn lớn đều xấu xa'. Bất kể một doanh nghiệp hoạt động minh bạch đến đâu, chỉ cần là một tập đoàn lớn, nó sẽ bị chỉ trích.
Những người tin như vậy có thể chưa bao giờ xây dựng một doanh nghiệp, nhưng tự nhiên, họ dễ chỉ trích một điều họ không hiểu.
Sự thiếu trải nghiệm cá nhân thường bị lấp đầy bởi sự hoài nghi, dẫn đến việc tạo ra các niềm tin sai lầm và thái độ dè bỉu.
Khi tôi viết bài này, tôi đã nhận ra kiến thức mà tôi thiếu và cả tấm biển dừng của riêng tôi.
Tôi luôn tin rằng dân chủ là hệ thống tốt nhất, như Winston Churchill từng nói, 'Dân chủ là hệ thống tồi nhất, nhưng còn hơn tất cả các hệ thống khác.' Tôi hiểu giá trị của dân chủ mà không cần hiểu biết về các hệ thống khác.
Nếu ai đó tranh luận rằng chế độ độc tài tốt hơn, tôi có thể lắng nghe, nhưng suy nghĩ của tôi sẽ không thay đổi. Đó là cách tôi nhận ra tấm biển dừng của mình.
Sau khi nhận ra tấm biển này, câu hỏi tiếp theo là, 'Tôi nên làm gì bây giờ?'
Nếu tôi chấp nhận nó, tôi đang chấp nhận việc trở thành kẻ lười biếng, điều này là mối đe dọa đối với công việc của tôi.
Tôi không muốn chuyện tiếp tục như vậy, vì vậy tôi chọn bước tiếp theo là tìm cách vượt qua tấm biển dừng suy nghĩ.
Bước đầu tiên là phải hiểu rõ tại sao nó tồn tại.
Khi nói về nguồn gốc của tấm biển dừng suy nghĩ, có 3 nguyên nhân:
(1) Cá nhân được lợi khi tin vào nó
(2) Niềm tin này phù hợp với danh tính của ta
(3) Sợ hãi phải chấp nhận quan điểm trái ngược
Số một chính là lý do phổ biến nhất giải thích vì sao “Đức Chúa Trời”, hoặc “chế độ dân chủ”, và “chủ nghĩa tư bản” trở thành những tấm biển dừng phổ biến nhất.
Đức Chúa Trời mang lại cho chúng ta cảm giác an toàn, còn chế độ dân chủ đem lại cảm giác công bằng, chủ nghĩa tư bản thì đầy hứa hẹn lợi nhuận nếu bạn đã từng trải qua những lợi ích khi tin tưởng vào những mô hình này.
Dù có hàng nghìn người khác đang sống cuộc sống tốt đẹp mà không tin tưởng vào điều gì, mối kết nối cá nhân với trải nghiệm của chúng ta vẫn khiến chúng ta cảm thấy như đó là những hệ thống, những giá trị tốt đẹp nhất dành cho con người.
Nguyên nhân thứ hai xảy ra khi chúng ta tiếp cận những ý tưởng mới tương thích với thế giới quan của chúng ta. Chúng ta nhanh chóng chấp nhận ý tưởng đó dựa trên mối kết nối đơn giản với bản thân. Ví dụ, việc đeo khẩu trang hiện nay đã trở thành một vấn đề chính trị. Mặc dù, các tác động sinh học của việc đeo khẩu trang không có mối liên kết logic nào với một đảng chính trị cụ thể, nhưng thực tế, các nhà chính trị ảnh hưởng đã đưa ra các lập luận riêng biệt, biến nó thành một tấm biển dừng suy nghĩ.
Nguyên nhân thứ ba bắt nguồn từ việc bản thân người xây dựng tấm biển dừng muốn loại bỏ nó đi, nhưng lại sợ phải đối mặt với sự tranh luận từ cộng đồng. Đó là những người đã thầm bỏ phiếu cho ứng cử viên mà bạn của họ không đồng ý ủng hộ, là những người đã mất niềm tin vào bản thân nhưng vẫn tiếp tục thăm các nhà thờ. Họ đã làm đủ lý trí để phát triển vị thế của bản thân, chỉ cần một chút can đảm nữa là có thể đứng về phía lập trường khác.
Khi bạn nhìn vào những tấm biển dừng của riêng mình, nguyên nhân nào là lý do giải thích cho sự tồn tại của từng tấm biển đó?
Đối với ví dụ về “nền dân chủ” mà tôi đã đề cập trước đó, nguyên nhân thứ nhất có vẻ chính là nguyên phạm, nhưng thực ra, cũng có thể là cả ba. Trải nghiệm của tôi khi sống dưới chế độ dân chủ có lẽ đã khiến tôi ngừng ủng hộ bất kỳ hệ thống chính trị nào khác (nguyên nhân thứ nhất). Danh tính của tôi là một công dân Mỹ, chắc chắn không liên quan (nguyên nhân thứ hai). Và việc ủng hộ một hệ thống chính trị mới có thể khiến tôi phải quay lưng với hàng triệu người dân Mỹ tự hào về nền tảng của quốc gia này (nguyên nhân thứ ba).
Bất kể lý do gì đi nữa, biện pháp duy nhất để hạn chế sức mạnh của tấm biển dừng Suy nghĩ trong ta là tự chủ tìm về những điều không chắc chắn. Hành động này có vẻ ngược đời với những gì trực giác bảo, trong bối cảnh con người liên tục học hỏi để mở rộng kiến thức và hiểu rõ hơn về cách thế giới hoạt động. Tuy nhiên, tấm biển dừng Suy nghĩ xuất hiện như một lời chỉ thị rõ ràng cho thấy, sự chắc chắn ở hiện tại không thể đảo ngược, tương tự như việc cuộc hành trình học hỏi mới mẻ, về cơ bản, đã đến lúc dừng lại.
Bằng cách mang yếu tố không chắc chắn trở lại bàn cờ, ta quyết định quan sát tình hình mà không có định kiến, và không có sự can thiệp của các trải nghiệm cá nhân.
Ta kiên trì vượt qua tấm biển dừng đó để khám phá tư duy một lần nữa.
Dù không thể chắc chắn rằng, ta có thể tiến lên với một quan điểm hoàn toàn khách quan, nhưng sự nỗ lực đó đã đáng giá lắm rồi.
Có một số biện pháp thiết thực để làm điều này, một trong những cách tôi áp dụng để đẩy lùi tấm biển dừng trong tâm trí là tự chủ tìm kiếm những lý luận mạnh mẽ, trái ngược với quan điểm của mình.
May mắn thay, mạng Internet quả thực là ân phước của Đức Chúa Trời, thuận lợi giúp tôi tìm kiếm đa dạng các quan điểm và lập luận. Vì vậy, tất cả những gì tôi làm đó chính là tra google cụm “những quan điểm trái chiều về (một quan điểm của tôi)”.
Bạn sẽ tìm thấy hàng loạt video, bài báo và các nguồn Wikipedia định hình một góc nhìn tương đối cụ thể về ý kiến trái chiều đó, bạn sẽ hiểu rõ hơn về những gì bản thân đã bỏ lỡ. Khi bạn thường xuyên tra cứu như vậy, bạn sẽ nhận thấy những lập luận ấy mới thực sự hợp lý ra sao.
Khi đã đọc qua đa dạng các luồng ý kiến, bạn sẽ thấu hiểu rằng bản thân đã bỏ lỡ nhiều điều vì chưa hiểu rõ, có quá nhiều điều bạn đã bác bỏ như một mớ lý lẽ vớ vẩn, thay vì tìm cách hiểu rõ chúng.
Biển dừng suy nghĩ cho phép bản thân ta lười động não, vì vậy, cũng là điều quá bình thường khi ta lựa chọn những lập luận ít thông tin nhất, để phủ đầu toàn bộ các quan điểm trái ngược khác.
Để khắc phục tình trạng này, quan trọng là ta phải khéo léo bày tỏ về quan điểm của phe đối lập, để nhận được sự đồng thuận. Hãy đưa ra những lý giải mang tính khách quan nhất, và lấy đó làm tiền đề cho lập luận của bản thân.
Ví dụ, nếu tôi phải tranh luận với một người về lý do tại sao nền dân chủ lại vượt trội hơn so với các đế chế độc tài, quả là ngây thơ nếu tôi lấy hình ảnh của Adolf Hitler ra để làm lẽ biện hộ lý tưởng nhất, vì lẽ đó không mang tính khách quan.
Thay vì vậy, tôi nên thách thức ý kiến của bản thân bằng cách so sánh với một nhân vật như Lý Quang Diệu, ông được coi như một “nhà độc tài nhân từ” của Singapore, thành công mở ra một kỷ nguyên thịnh vượng không tưởng cho dân chúng nước này. Nếu có thể bảo vệ cho đảng dân chủ, so với lập trường đối lập là ông Lý, tôi sẽ hiểu rằng, bản thân đã có lý trí để từng bước vượt qua ranh giới được đặt ra bởi tấm biển dừng suy nghĩ.
Tuy nhiên, vấn đề là, điều này yêu cầu con người phải hành động, và hầu hết, không ai muốn đầu tư thời gian và năng lượng cần thiết để phát triển một quan điểm toàn diện như vậy.
Điều này cũng dễ hiểu, nhưng nếu đúng như vậy, hãy trung thực với bản thân.
Thay vì giả định rằng bản thân đã hiểu rõ về mọi khía cạnh của một vấn đề, hãy nhận ra nếu bạn chưa đầu tư vào việc lập luận một cách công bằng.
Hãy cẩn thận với tấm biển dừng suy nghĩ, nó sẽ khiến bạn cắt đứt lối suy luận của bản thân, và bạn sẽ không muốn đi sâu vào nữa.
Sau cùng, bối cảnh của quá trình tư duy đã được xác định sẽ có cả vùng đất sáng sủa của sự tò mò sáng tạo, và cả những khu vực tối tăm của sự chắc chắn không linh hoạt. Nguyên do là vì thời gian và nỗ lực của mỗi người đều có hạn, và thỏ thông minh phải biết đào ba hang.
Tuy nhiên, với những mục tiêu mà chúng ta đã chọn đầu tư vào, trí tuệ của chúng ta sẽ phải chịu ảnh hưởng tiêu cực nếu chúng ta ngừng suy nghĩ khi chọn cho mình một niềm tin cố định.
Eliezer Yudkowsky đã từng nói rằng “có nhiều cách để tôn thờ một tín ngưỡng, thay vì chỉ thắp nến xung quanh bàn thờ.”
Dựa vào việc xuất hiện của tấm biển dừng suy nghĩ là cách tốt nhất để tìm ra điều mà bạn tôn thờ, vì nó thể hiện rằng bạn đã dừng lại trong việc tìm kiếm sự thật.
Tuy nhiên, chân lý trên thế gian này, thường không có một điểm kết logic. Nó luôn chia rẽ theo các con đường riêng biệt, không có điểm tiếp xúc, và sau đó phân nhánh thành các con đường khác, và tiếp tục như vậy. Đó là lý do tại sao chúng ta cần tiếp tục thảo luận với chính bản thân mình, thay vì hài lòng với một câu trả lời cụ thể. Bằng cách loại bỏ tấm biển dừng suy nghĩ, chúng ta đã chấp nhận sự thật đó, và tiếp tục cuộc hành trình khám phá sâu hơn vào những điều chưa biết.