1. Thời trẻ và duyên cớ xuất gia
Tôn giả được sinh ra trong một gia đình giàu có và quyền quý. Trong "Tôn Túc Kệ Ngôn" câu số 911 (Theragàthà 11), A Nậu Lâu Ðà đã tự mình tóm tắt thời niên thiếu như sau:
(Đoạn văn đã được chuyển thể sang thể thơ).
A Nâu Đà La cũng là một trong những hoàng tử ưu tú của dòng họ Thích Ca, nổi bật với trí tuệ, sự thanh nhã và tài năng võ nghệ. Ngài có giọng hát êm ái, mang lại cảm giác bình yên và hạnh phúc cho người nghe.
Hoàng tử luôn thể hiện sự chân thật, nhu thuận, sống yêu thương hòa hợp, đối xử với những người hầu cận như những người bạn thân thiết.
A Nậu Lâu Ðà đã trải qua một cuộc sống vương giả không hề lo âu, đầy niềm vui tươi cho đến khi có một sự kiện xảy ra, thay đổi hoàn toàn hướng đi của cuộc đời Hoàng tử.
Khi Đức Thế Tôn trở về kinh thành Ca Tỳ La Vệ, anh trai Ngài - Hoàng tử Mahànàma bất ngờ xúc động khi nghĩ rằng: "Nhiều thành viên trong dòng họ "Vương Bá" (ám chỉ vua Tịnh Phạn) đã theo Phật xuất gia. Trong khi đó, chưa có ai trong gia đình ông (tức dòng ngự đệ Amitodana) tham gia vào cuộc sống cao thượng của Tăng Già. Đặc biệt, ngoài ông ra, gia đình còn bốn hoàng tử thông minh và khỏe mạnh."
Vì vậy, Mahànàma đã thuyết phục em trai A Nậu Lâu Ðà theo Phật. Sau cuộc trò chuyện, A Nậu Lâu Ðà nhận ra rằng cuộc sống của một vị Sa môn trong Tăng đoàn thực sự thuần khiết và thanh tịnh.
Vì thế, Hoàng tử quyết tâm từ bỏ cuộc sống vương giả để trở thành một vị tu sĩ xuất gia. Kết quả là không chỉ có mình Ngài mà còn 6 hoàng tử Thích Ca (Sakya): Bhaddiya, Anuruddha, Ànanda, Bhagu, Kimbila và Devadatta cũng rời kinh đô Ca Tỳ La Vệ để tìm đến Đức Phật, mang theo một người hầu tên là Upàli.
Đại Đức Bhaddiya là người đầu tiên đắc quả A La Hán với ba loại thông: Túc Mạng Thông (biết rõ về tiền kiếp của mình), Thiên Nhãn Thông (thấy rõ mọi loài, cả hữu hình lẫn vô hình) và Lậu Tận Thông (tẩy sạch phiền não).
A Nậu Lâu Ðà thì đạt được Thiên Nhãn Thông, trở thành một trong mười đại đệ tử được mọi người ngưỡng mộ. A Nan Ðà (Ànanda) cũng đạt thánh quả Nhập Lưu (Sotapanno). Devadatta (Ðề Bà Ðạt Ða) đã rèn luyện nhiều quyền thuật siêu nhiên. Còn Bhagu, Kimbila và Upàli thì sau này mới đạt được quả A La Hán giống như A Nan Ðà và A Nậu Lâu Ðà.
Chỉ có Ðề Bà Ðạt Ða, do luyện thành nhiều quyền lực siêu phàm, nên đã trở nên kiêu ngạo, tham lam và cuối cùng đã đi vào con đường chống lại Phật, phải chịu đọa đày trong địa ngục Vô Gián.
2. Sự tích về A Nậu Lâu Ðà
Tôn giả A Nậu Lâu Ðà được mọi người vô cùng tôn kính vì là một bậc tu hành rất thanh tịnh, nhưng Ngài lại có điểm yếu là hay ngủ gật mỗi khi nghe Phật thuyết pháp.
Sau vài lần bị Đức Phật quở trách, Ngài cảm thấy xấu hổ và quyết định lập hạnh “không ngủ”, chỉ ngồi mở to mắt nhìn vào khoảng không mà không chớp mắt. Ngài đã duy trì trạng thái này suốt 7 ngày 7 đêm cho đến khi mắt bị sưng phù và dẫn đến mù lòa.
- A Nậu Lâu Ðà này, thầy quả thật là bậc kiên nhẫn, xứng đáng nhận sự cúng dường của trời người. Dù đôi mắt của thầy không còn, nhưng ta biết rằng thầy có đôi mắt trí tuệ siêu phàm. Hãy đưa chiếc y của thầy cho Như Lai giúp, đây là việc cần làm của tất cả mọi người.
Sau đó, Đức Phật đã tự mình cầm tay chỉ dạy Tôn giả A Nâu Đà La cách may áo và phương pháp tu định để giúp mắt sáng ra.
Đức Phật thương xót đã dạy Ngài tu Tam muội Kim Cang Chiếu Minh. Không lâu sau, A Nậu Lâu Ðà đã đắc được Thiên Nhãn Thông, thấy rõ ba ngàn đại thiên thế giới, như thấy trái Am Ma La trong tay, dù ở xa hay gần, bên trong hay bên ngoài, A Nậu Lâu Ðà có thể nhìn thấu tất cả. Vì vậy, Ngài được Phật ấn chứng là Thiên Nhãn đệ nhất.
3. Vì sao A Nậu Lâu Ðà được gọi là Thiên Nhãn đệ nhất
Tôn giả càng lúc càng thâm nhập vào các tầng thiền định, khi đó cả đất trời như hiện hữu rõ ràng trong một ánh nhìn, tường tận đến từng hạt bụi. Ngay giây phút đó, Thiên nhãn thanh tịnh siêu nhiên bừng sáng.
Các cõi trời cực kỳ vinh quang, chỉ dành cho những người biết đạo lý, tôn kính Tam Bảo và làm nhiều việc thiện. Tầng trời Sắc giới hoàn toàn thanh tịnh không còn dục vọng, cõi Phạm Thiên thuần khiết ngập tràn ánh sáng, và cõi trời Vô Sắc thì chỉ là cõi tâm bao la, không có hình hài mà bao trùm tất cả.
Khi Tôn giả A Nậu Lâu Đà bừng tỉnh với Thiên nhãn để quán sát pháp giới, các vị A La Hán tại tinh xá đều cảm nhận được đạo lực phi thường của Ngài. Tôn Giả Tân Đầu Lô Phả La Đoạ đã khen ngợi: “Tôn Giả A Nậu Lâu Đà nhìn thấy cả tam giới rõ ràng như xem trái xoài trong lòng bàn tay”.
Qua nhiều kiếp, mỗi khi gặp nhân duyên nơi có thờ Xá lợi Đức Phật, Ngài lại trỗi dậy niềm kính ngưỡng và thắp sáng chánh điện bằng hàng ngàn ngọn đèn nến.
Tôn giả cũng phát triển một đức tính luôn theo Ngài qua vô lượng kiếp, đó là luôn chú tâm đến những nỗi khổ xung quanh để từ đó giúp đỡ và sẻ chia. Ngài cảm nhận được nỗi buồn thoáng qua nơi vầng trán của họ và trao cho họ sự quan tâm tử tế. Vì thế, khi được thành tựu, Thiên nhãn của Ngài có thể thấu suốt hàng nghìn thế giới, nhìn rõ dòng chảy của sinh tử luân hồi và soi tỏ từng tâm tư vi tế trong lòng chúng sinh.
4. Tiền kiếp của A Nậu Lâu Ðà
Trong thời kỳ giáo pháp của Đức Phật quá khứ có tên là Kassapa (Ca Diếp - trùng tên với Thánh Tăng Ðại Ca Diếp), tiền thân của A Nậu Lâu Ðà là một người nghèo khó, nhưng vẫn thường xuyên cúng dường cho các bậc Phạm hạnh. Khi Đức Phật viên tịch, người hằng ngày lo chăm sóc và thắp nhang cho ngôi bảo tháp nơi an trí Xá lợi của Ngài…
Hạnh hy sinh cao quý đã luôn theo Ngài qua nhiều kiếp, nên ở kiếp này, nhờ vào sự tu thiền mà Ngài đã chứng đắc, khi đạt được Thiên nhãn thông, Ngài bỗng nhớ lại và thuật lại qua bài kệ ngôn về những kiếp sống của mình.
Ngài đã từng là vua trời Ðế Thích trên cõi trời, và khi tái sinh xuống trần thế thì trở thành Đế vương. Cứ như vậy, Ngài đã lên Trời, xuống làm người trong bảy kiếp. Bảy kiếp trần gian, bảy kiếp thiên đường… Trong mỗi kiếp đều ngồi trên ngai vàng, nhưng Ngài luôn sống một cuộc đời hiền đức.
5. Ngài A Nậu Lâu Ðà viên tịch
Tôn giả A Nậu Lâu Ðà đã từ bi khuyến khích và hướng dẫn vị sư đệ của mình - Tôn giả A Nan Đà ngay sau khi Đức Thế Tôn viên tịch, để giúp vị Sa Môn này đạt được Thánh giới giải thoát, chấm dứt vòng sinh tử luân hồi.