Tổng quan về tôn giáo
Ngay cả những người sử gia hoài nghi vẫn tôn trọng và quý trọng tôn giáo, vì họ nhận thấy vai trò không thể thiếu của nó trong mọi thời đại và địa phương. Đối với những linh hồn bất hạnh, đau khổ, mất mát, già yếu, tôn giáo mang lại một sự an ủi siêu nhiên mà hàng triệu người trân trọng hơn bất cứ điều gì tự nhiên nào. Nó giúp cha mẹ và giáo viên dạy dỗ thế hệ trẻ. Nó mang lại ý nghĩa và giá trị cho cả những người thấp kém, khốn cùng nhất; và thông qua các bí tích, tôn giáo đã tạo ra sự ổn định bằng cách biến cam kết giữa con người thành mối quan hệ tôn trọng với Thiên Chúa. Napoléon từng nói rằng tôn giáo đã ngăn chặn người nghèo giết người giàu. Do bất bình đẳng tự nhiên giữa con người và con người mà đa số chúng ta thường phải đối mặt với thất bại và nghèo túng. Có lẽ chỉ có một chút hy vọng siêu nhiên nào đó mới là giải pháp cho nỗi tuyệt vọng ấy. Chỉ cần phá hủy niềm tin này thì hậu quả sẽ là cuộc chiến giữa các tầng lớp trỗi dậy mạnh mẽ. Thiên đàng và một xã hội không tưởng chẳng khác nào hai chiếc gàu múc nước từ cùng một giếng: khi một chiếc đi xuống thì chiếc còn lại phải đi lên.
Cơ sở hình thành tôn giáo
Nỗi sợ hãi là nguồn gốc của các vị thần đầu tiên.
Những Đóng Góp Quan Trọng của Tôn Giáo
Giáo Hội, mặc dù phục vụ nhà nước, nhưng luôn coi trọng luân lý đạo đức cao hơn quyền lực. Nó nhấn mạnh về lòng trung thành và luân lý trong việc yêu nước để tránh sự tham lam và tội lỗi. Giáo Hội xác lập quy tắc đạo đức duy nhất mà cả chính phủ đối địch như Giáo Hội Kitô cũng phải tuân thủ. Với nguồn gốc và quyền lực tâm linh, Giáo Hội tự xưng là tòa án quốc tế mà mọi quyền lực phải chịu trách nhiệm về đạo đức. Hoàng đế Henry IV đã thể hiện sự tôn trọng này khi ông kính trọng Giáo Hoàng Gregory tại Canossa vào năm 1077. Sau đó, Giáo Hoàng Innocent III tăng cường uy tín và quyền lực của vị trí Giáo Hoàng lên một tầm cao mới, với ý niệm rằng một liên minh các quốc gia tuân theo một giá trị đạo đức chung của Giáo Hội là điều có thể.
Khía Cạnh Tiêu Cực của Tôn Giáo
Giấc mơ về sự vĩ đại tan vỡ dưới tác động của chủ nghĩa dân tộc, hoài nghi và sự yếu đuối của con người. Giáo Hội được điều hành bởi những con người phàm tục, và do đó có xu hướng thiên vị, tham nhũng và những hành động không đạo đức. Trong quá trình phát triển của Pháp, quyền lực và tài sản ngày càng tăng, biến Giáo Hoàng thành một công cụ chính trị. Các vị vua quyền lực có thể ép buộc Giáo Hoàng giải tán các dòng tu trước đây đã tận tình phục vụ Giáo Hội. Thậm chí, Giáo Hội đã thủ tiêu tín đồ bằng cách tạo ra những huyền thoại đạo đức không có cơ sở, những thánh tích giả mạo và những sự kiện siêu nhiên đáng ngờ. Trong nhiều thế kỷ, Giáo Hội kiếm lợi từ những câu chuyện huyền bí như 'Đặt Xoa vào Quyền' (về việc Constatine hiến tặng đất cho Giáo Hội) và 'Những Sắc Lệnh Giả Mạo' (lưu hành vào khoảng 842), nhằm chứng minh quyền lực tuyệt đối của các Giáo Hoàng. Dần dần, Giáo Hội chỉ tập trung vào việc truyền bá quan điểm của mình thay vì luân lý đạo đức. Gần đây, Tòa Án Dị Giáo đã trở thành một nỗi nhục nhã, một cái đòn hạ bệ danh dự của Giáo Hội. Ngay cả trong việc thuyết giáo về hòa bình, Giáo Hội cũng đã góp phần vào các cuộc chiến tranh tôn giáo ở Pháp vào thế kỷ XVI và Chiến Tranh Ba Mươi Năm ở Đức vào thế kỷ XVII. Tóm lại, Giáo Hội chỉ có một phần nhỏ trong việc tiến bộ của luân lý đạo đức hiện đại, đặc biệt là việc loại bỏ nô lệ, trong khi các triết gia đã đóng góp nhiều hơn trong việc giảm thiểu tệ nạn trong thế giới ngày nay.
Sự Tồn Tại của Đấng Sáng Thế
Lịch sử chứng minh tầm quan trọng của Giáo Hội với niềm tin vào một tôn giáo phong phú với phép màu, những điều kỳ bí và thần thoại đậm đà. Mặc dù có những thay đổi nhỏ về nghi lễ, phục vụ và quyền lực giám mục, nhưng Giáo Hội không thay đổi những nguyên tắc lẻn tránh bởi những thay đổi đó có thể làm mất đi niềm tin của hàng triệu người. Mọi ước mong của con người đều liên quan đến những điều mà trí tưởng tượng vẽ ra và đem lại cảm hứng và an ủi. Không có sự hòa hợp nào giữa tôn giáo và triết học, trừ khi các triết gia thừa nhận rằng họ không thể thay thế trách nhiệm của Giáo Hội trong việc truyền bá luân lý, và Giáo Hội chấp nhận quyền tự do tín ngưỡng và tự do tư tưởng của mỗi người.
Khái niệm về 'Thiên Chúa'
Biểu tượng của phủ nhận
Có thể ngày nay là thời điểm mà sự phát triển của khoa học và nhận thức con người làm cho tôn giáo phải đối mặt với những khó khăn?
'Cái chết của Thiên Chúa' bắt đầu từ đó (ở đây 'Thiên Chúa' được hiểu như một thực thể tôn giáo bên ngoài).
Để xảy ra một hệ quả to lớn như vậy, cần có nhiều nguyên nhân bên cạnh sự truyền bá tri thức lịch sử. Phong trào cải cách Tin Lành ban đầu bảo vệ quyền định đoạt cá nhân. Các nhóm Tin Lành và Thần Học mâu thuẫn nhau, viện dẫn cả Kinh Thánh lẫn lý lẽ. Kinh Thánh càng bị chỉ trích, là một tác phẩm kém hoàn hảo của phàm nhân. Phong trào Tự Nhiên Thần Giáo ở Anh giới hạn tôn giáo thành niềm tin mơ hồ vào một Đấng Thiên Chúa không khác tạo hóa là bao. Sự tương đồng giữa Kitô Giáo và tôn giáo khác giống một cách đáng kinh ngạc với tín điều Kitô Giáo. Tin Lành tiết lộ về phép lạ của Công Giáo, Tự Nhiên Thần Giáo bóc trần phép lạ của Công Giáo, quần chúng phát hiện ra các vụ gian lận, lạm quyền của Tòa Án Dị Giáo và các vụ thảm sát trong lịch sử của đạo này. Nông nghiệp dẫn dắt con người tin vào Thiên Chúa bởi chu kỳ tái sinh hàng năm và nhịp sinh trưởng bị công nghiệp thay thế, tiếng kinh cầu của máy móc trở thành tiếng kinh cầu của thế giới. Sự tiến bộ của giới học thuật theo chủ nghĩa hoài nghi và triết học phiếm thần thách thức những giới luật thiêng liêng từ trên trời ban xuống.
Kitô Giáo đã “đào hố chôn mình” khi chính nó dung dưỡng ý thức đạo đức trong tín đồ, không chấp nhận Đấng Chúa đầy “sân hận” trong thần học. Ý niệm về địa ngục biến mất trong tư tưởng những người có học thức, không còn chỗ đứng trên bục giảng thuyết. Người theo Giáo Hội Trưởng Lão ngượng về Bản Tuyên Xưng Đức Tin Westminster, vì bản này buộc họ tin vào Đấng Chúa tạo ra hàng tỷ con người dù Người quá rõ số phận an bài họ sẽ bị đày xuống địa ngục vĩnh viễn.
Những Kitô hữu học vấn thăm Nhà Nguyện Sistine bị sốc trước bức họa của Michelangelo vẽ Chúa ném kẻ phạm tội vào lửa hỏa ngục để ngọn lửa không bao giờ tắt thiêu đốt họ. Có lẽ lại là “Chúa Giêsu hiền lành, ôn nhu”, người truyền cảm hứng cho thời tuổi trẻ của họ?
“Một phần dân số hoàn toàn không tin vào sự tồn tại của thần linh)
Sự phát triển tinh tấn của nền đạo đức Kitô Giáo bào mòn nền Thần Học Kitô. Đấng Kitô soán ngôi Đấng Giêhôva.
Tôn giáo được xem như một khía cạnh thứ yếu của sinh lý nữ
Tính Duy Lịch Sử và Vẫn Có Tôn Giáo - Ý Nghĩa của Tôn Giáo Trong Quá Khứ
Đạo Công giáo tồn tại do nó kích thích sự sáng tạo tưởng tượng, khơi dậy lòng hy vọng và kích thích các giác quan; bởi những câu chuyện bí ẩn mà nó chứa đựng mang lại sự an ủi và chiếu sáng cuộc sống của những người cùng chia sẻ cùng khổ. Thông qua việc sinh sản hậu duệ theo những gì Thiên Chúa đã chỉ dạy, những người theo đạo Kitô đã dần khôi phục lại những vùng đất mà trước đây đã mất trong thời kỳ Cải Cách Tôn Giáo. Công Giáo đã bỏ qua sự phản kháng từ giới trí thức, và hậu quả là nó phải chịu đựng sự mất mát tín ngưỡng do tiếp xúc với giáo dục và văn hóa thế tục đem lại. Tuy nhiên, Công Giáo cũng đã cảm hóa và thu hút được một số người chuyển đổi – những người đã mệt mỏi với việc xây dựng niềm tin, nguyên tắc của họ - hoặc những người mong đợi rằng Giáo Hội sẽ ngăn chặn được sự hỗn loạn nội bộ và nguy cơ từ những đợt biến đổi tín ngưỡng mới nổi lên.
Chỉ khi một cuộc xung đột toàn cầu mới phá hủy nên văn minh của Phương Tây, và hậu quả là toàn bộ thành phố bị tàn phá, nạn đói bùng nổ, tri thức bị suy giảm thì Giáo Hội mới có thể lấy lại địa vị cao quý, trở thành niềm hy vọng duy nhất, dẫn dắt, soi đường, giúp những người sống sót vượt qua thảm họa đó, như những gì đã diễn ra vào năm 475.
Một bài học từ lịch sử là tôn giáo có tính tái sinh cao và thường được hồi sinh. Trong quá khứ, các vị thần và tín ngưỡng đã qua đời và được hồi sinh nhiều lần! Ikhnaton đã dùng mọi quyền lực của một Pharaoh để diệt tôn giáo Amon; trong vòng một năm sau cái chết của Ikhnaton, tín ngưỡng Amon đã tái sinh. Chủ nghĩa vô thần bắt đầu phát triển ở Ấn Độ khi Đức Thích Ca còn trẻ, và ông đã thành lập một tôn giáo không thờ phụng bất kỳ vị thần nào; chỉ sau khi Đức Thích Ca qua đời, Phật Giáo mới phát triển thành một hệ thống Thần Học phức tạp bao gồm nhiều vị thánh thần và bao gồm cả địa ngục. Triết học, khoa học, và giáo dục đã tiêu diệt đền thờ các vị thần Hy Lạp, và vì vậy, với sự trống trải về khía cạnh tôn giáo đó, đã có sự hấp dẫn với hàng tá các tín ngưỡng Phương Đông ngoại đạo mang theo nhiều huyền thoại về phục sinh. Năm 1793, Hébert và Chaumette đã hiểu sai ý kiến của Voltaire và bắt đầu sùng bái (theo kiểu vô thần) và thành lập đền thờ Nữ Thần Lý Trí ở Paris. Một năm sau, Robespierre, vì sợ hãi sự hỗn loạn và bị cảm hứng từ Rousseau, đã lập ra đền thờ Đấng Toàn Cao. Năm 1801, Napoleon, một người hiểu biết lịch sử, đã ký kết một thỏa thuận với Giáo Hoàng Pius VII, để tái thiết Giáo Hội Công Giáo ở Pháp. Giai đoạn vô tín ngưỡng ở Anh trong thế kỷ XVIII đã chấm dứt sự xung đột giữa Nữ Hoàng Victoria và Kitô Giáo: nhà nước đồng ý ủng hộ Giáo Hội Anh Giáo, giới trí thức giảm bớt sự hoài nghi của họ vì họ hiểu rằng Giáo Hội phải tuân thủ nhà nước, và giáo dân sẽ tôn trọng phục vụ quý tộc Anh. Ở Mỹ, chủ nghĩa duy lý của các vị lãnh đạo sáng lập đất nước đã nhường bước cho sự phục hồi tôn giáo trong thế kỷ XIX.
Tôn giáo và Chủ nghĩa Thanh Giáo và Chủ Nghĩa Tà Giáo - một bên là sự kiềm chế và hạn chế, còn một bên là sự biểu hiện và thể hiện các cảm xúc và ham muốn - hai khía cạnh này thường xen kẽ nhau trong các biến động lịch sử. Tổng thể, tôn giáo và chủ nghĩa thanh giáo phổ biến trong những giai đoạn mà luật pháp còn yếu đuối và luân lý phải đảm bảo vai trò bảo đảm trật tự xã hội. Nếu các yếu tố khác được duy trì ổn định, chủ nghĩa nghi ngờ và chủ nghĩa tà giáo sẽ phát triển khi luật pháp được tăng cường và khi chính phủ chấp nhận vai trò quan trọng của nhà thờ, gia đình, và luân lý mà không gặp nguy cơ tổn thương đến sự ổn định của quốc gia.
Tôn giáo Là Một Khía Cạnh Bất Tử Vì Lợi Ích Lớn Mà Nó Mang Lại Cho Lịch Sử
Trong thời đại hiện nay, quyền lực của nhà nước đã hợp nhất với các yếu tố kể trên để nới lỏng đạo đức và tín ngưỡng, điều này cho phép chủ nghĩa tà giáo tiếp tục phát triển tự nhiên của nó. Sự nới lỏng đạo đức có thể gây ra phản ứng ngược lại; hỗn loạn đạo đức có thể dẫn đến một quá trình phục hồi tôn giáo; những người không tôn giáo có thể lại gửi con cái vào học tại các trường Công Giáo để học tập tác phong kỷ luật và tôn giáo (như tại Pháp sau thất bại năm 1870). Hãy nghe lời của Renan - một triết gia không thể kiên quyết vào năm 1866:
Hãy tận hưởng tự do tinh thần của Đức Chúa Trời, nhưng phải cẩn trọng, vì có thể chúng ta sẽ rơi vào trạng thái suy thoái đạo đức. Nếu Kitô Giáo suy yếu, điều này có thể gây ra hậu quả nghiêm trọng cho toàn bộ xã hội. Nếu chủ nghĩa duy lý muốn kiểm soát toàn bộ thế giới mà không quan tâm đến nhu cầu tín ngưỡng, thì cần nhớ bài học từ Cuộc Cách Mạng Pháp về hậu quả của sai lầm nghiêm trọng ấy.
'Khi còn sự khốn cùng, thần linh vẫn còn tồn tại'.
Người Tạo: Thiên Thần Ánh Sáng