Tôn Sĩ Nghị | |
---|---|
Tên chữ | Trí Viễn; Trí Trị |
Tên hiệu | Bổ Sơn |
Thụy hiệu | Văn Tĩnh |
Tổng đốc Tứ Xuyên | |
Nhiệm kỳ | |
22 tháng 4, 1795-2 tháng 8, 1796 (lâm thời) | |
Tiền nhiệm | Hòa Lâm |
Kế nhiệm | Phúc Ninh |
Nhiệm kỳ 19 tháng 9, 1791-5 tháng 12, 1791 (lâm thời) | |
Tiền nhiệm | Ngạc Huy |
Kế nhiệm | Huệ Linh |
Nhiệm kỳ 27 tháng 12, 1789-13 tháng 7, 1790 (lâm thời) | |
Tiền nhiệm | Lý Thế Kiệt |
Kế nhiệm | Phúc Khang An |
Đại học sĩ Văn Uyên các | |
Nhiệm kỳ 7 tháng 10, 1792-10 tháng 8, 1796 | |
Tiền nhiệm | Kê Hoàng |
Kế nhiệm | Khánh Quế |
Đồng cấp | Kê Hoàng (1792-1794) |
Đại học sĩ Hán Khuyết Hiệp Bạn | |
Nhiệm kỳ 29 tháng 5, 1791-22 tháng 9, 1792 | |
Tiền nhiệm | Bành Nguyên Thụy |
Kế nhiệm | Chu Khuê |
Lại bộ Hán thượng thư | |
Nhiệm kỳ 25 tháng 5, 1791-22 tháng 9, 1792 | |
Tiền nhiệm | Bành Nguyên Thụy |
Kế nhiệm | Lưu Dung |
Tổng đốc Lưỡng Giang | |
Nhiệm kỳ 14 tháng 7, 1790-25 tháng 5, 1791 | |
Tiền nhiệm | Phúc Tung |
Kế nhiệm | Trường Lân |
Quân cơ đại thần | |
Nhiệm kỳ 6 tháng 8, 1789-27 tháng 12, 1789 | |
Tiền nhiệm | không có |
Kế nhiệm | không có |
Binh bộ Hán thượng thư | |
Nhiệm kỳ 3 tháng 4, 1789-5 tháng 6, 1790 | |
Tiền nhiệm | Bành Nguyên Thụy |
Kế nhiệm | Lý Thế Kiệt |
Tổng đốc Lưỡng Quảng | |
Nhiệm kỳ 27 tháng 4, 1785-6 tháng 8, 1785 (lâm thời) | |
Tiền nhiệm | Thư Thường |
Kế nhiệm | Phú Lặc Hồn |
Thông tin cá nhân | |
Sinh | |
Ngày sinh | 1720 |
Nơi sinh | Hàng Châu |
Quê quán | Nhân Hòa |
Mất | |
Thụy hiệu | Văn Tĩnh |
Ngày mất | 1796 |
Giới tính | nam |
Học vấn | Tiến sĩ Nho học |
Nghề nghiệp | chính khách |
Dân tộc | người Hán |
Quốc tịch | nhà Thanh |
Kỳ tịch | Chính Bạch kỳ (Hán) |
[sửa trên Wikidata] |
Tôn Sĩ Nghị (tiếng Trung: 孫士毅, 1720-1796), với tên chữ Trí Dã (智冶) và tên tự khác là Bổ Sơn (补山), đến từ tỉnh Chiết Giang. Ông là một vị đại thần nổi bật của triều đại Thanh và là một trong những tướng lĩnh thất bại trước vua Quang Trung của Đại Việt.
Ông vốn là quan văn, đỗ tiến sĩ dưới triều Càn Long. Ông đã đảm nhận nhiều chức vụ quan trọng như nội các Trung thư, Thị độc, Biên tu, Thái thường tự Thiếu khanh. Sau đó, ông được bổ nhiệm làm bố chính sứ tại Sơn Đông, rồi làm tuần phủ tại Quảng Tây. Ông cũng hai lần giữ chức tổng đốc Lưỡng Quảng dưới triều Càn Long. Lần đầu từ ngày 26 tháng 2 năm 1785 đến 1 tháng 9 năm 1785, và lần thứ hai từ ngày 1 tháng 9 năm 1785 đến 19 tháng 2 năm 1789. Ông đã chỉ huy quân đội trong trận chiến với Nguyễn Huệ tại Thăng Long vào dịp Tết Kỷ Dậu 1789, nhưng bị đánh bại.
Năm 1787, ông chỉ huy phòng thủ tại Triều Châu để ngăn chặn cuộc nổi dậy của Lâm Sảng Văn (林爽文) từ Đài Loan. Năm sau, ông dẫn quân Thanh tiến vào Đại Việt theo yêu cầu của Lê Chiêu Thống nhằm phục hồi triều Hậu Lê. Chiến dịch này của Tôn Sĩ Nghị là một trong những chiến dịch quan trọng của triều đại Càn Long và được ghi lại trong Thập toàn ký (1792). Càn Long đã tự xưng là Thập toàn lão nhân vì thành tích này. Xem thêm chi tiết trong bài Chiến thắng Kỷ Dậu.
Mặc dù không thành công trong việc phục hồi triều Hậu Lê, nhưng ông vẫn được phong tặng danh hiệu Nhất đẳng Mưu Dũng công và giữ chức vụ Binh bộ Thượng thư. Năm 1791, ông được điều chuyển làm tổng đốc Tứ Xuyên, phụ trách cung ứng quân nhu cho quân đội của Phúc Khang An trong chiến dịch trừng phạt quân đội Gurkha tại khu vực Gorkha thuộc Nepal. Sau đó, ông dẫn quân trấn áp các cuộc nổi dậy của người Miêu và Bạch Liên giáo. Ông qua đời vào năm Gia Khánh thứ nhất (1796).
Trong văn hóa đại chúng
Năm | Tác Phẩm | Diễn Viên |
2010 | 《Tây Sơn hào kiệt》 | Đoàn Dũng |
- Nguyễn Huệ
- Phú Lặc Hồn (富勒渾)
- Phúc Khang An (福康安)
- Thư Thường (舒常)
Liên kết bên ngoài
- Tôn Sĩ Nghị trên baike.baidu.com (tiếng Trung)
Tiền nhiệm: Thư Thường |
Tổng đốc Lưỡng Quảng 26/2/1785–1/9/1785 |
Kế nhiệm: Phú Lặc Hồn |
Tiền nhiệm: Phú Lặc Hồn |
Tổng đốc Lưỡng Quảng 23/5/1786–19/2/1789 |
Kế nhiệm: Phúc Khang An |
Tiêu đề chuẩn |
|
---|