Phân tích Cảnh ngày xuân (trong Truyện Kiều của Nguyễn Du) hay, được lựa chọn từ những bài văn xuất sắc của học sinh lớp 9 trên toàn quốc để hỗ trợ học sinh lớp 9 có thêm tư liệu tham khảo và học cách viết văn dễ dàng hơn.
Tổng hợp 20 bài phân tích về Cảnh ngày xuân của Nguyễn Du (súc tích và ngắn gọn)
Tổ chức ý của Phân tích Cảnh ngày xuân
1. Khởi đầu
- Giới thiệu về tác giả Nguyễn Du
- Giới thiệu đoạn trích 'Cảnh ngày xuân'
2. Phần thân bài
a. Miêu tả về khung cảnh tự nhiên vào mùa xuân trong bốn câu đầu:
- Bầy chim én lượn lờ trên bầu trời rộng mở của mùa xuân
- Ánh sáng ấm áp và kỳ diệu của bức tranh nắng tháng ba
- Mảng xanh mướt của cỏ cây bát ngát, mênh mông đến chân trời
- Cành lê đọng sắc trắng tinh khôi của những bông hoa mới nở
=> Một bức tranh mùa xuân đẹp đẽ, phong phú và yên bình qua bàn tay điêu khắc tài tình của nhà thơ.
b. Khung cảnh hội chợ sôi nổi, hân hoan:
- Mọi người đi hội thật vui vẻ, hào hứng, đầy năng lượng
+ Các bà, các chị đều lựa chọn những bộ trang phục đẹp để tham dự hội+ Khắp nơi, mọi người đều háo hức, từ các bà, các chị, đến những người đàn ông và tài tử, cùng nhau đón xuân, hân hoan trên đường phố tấp nập, đông đúc bởi dòng người và xe cộ.
+ Khung cảnh tảo mộ trang nghiêm, đong đầy nỗi buồn, nhớ nhung về những người đã khuất
c. Cảnh trở về sau ngày hội:
- Các chị em Kiều cùng nhau trở về, ngẩn ngơ trong lối đi, lòng bất giác vấn vương, xao xuyến
- Không gian dường như trở nên chật hẹp hơn, bầu không khí êm đềm mang theo chút buồn vương thoáng qua
- Trong phần kết của đoạn văn này, tác giả đã ứng dụng một cách biểu đạt đặc biệt, thông qua việc 'mô tả cảnh ngụ tình', làm cho cảnh vật mang đậm tâm trạng.
3. Kết luận
Đoạn trích 'Cảnh ngày xuân' đã thể hiện sự nhạy cảm, tinh tế và tài năng văn học vượt trội của đại thi hào dân tộc Nguyễn Du.
Bài phân tích Cảnh ngày xuân - mẫu 1
Nguyễn Du, nhà thơ lớn của dân tộc, để lại cho văn học Việt Nam một di sản vô giá. Trong số các tác phẩm của ông, truyện Kiều được coi là “bích huyết”, kể về cuộc đời của nàng Kiều với vẻ đẹp kiều diễm và số phận bi đại. Đoạn trích về cảnh ngày xuân là một trong những đoạn văn nổi bật, vừa mô tả chân thực vẻ đẹp của thiên nhiên, vừa mở ra những tầm quan trọng trong cuộc sống của Thúy Kiều.
Phần đầu của tác phẩm, sau khi giới thiệu bối cảnh và miêu tả vẻ đẹp của hai chị em Thúy Kiều và Thúy Vân, tác giả mô tả cảnh ngày xuân khi hai chị em tham gia hội chợ và không khí vui tươi, nhộn nhịp của lễ hội. Bốn câu thơ đầu tiên mô tả khung cảnh tự nhiên mùa xuân:
Ngày xuân con én đưa thoi
Thiều quang đã vượt sáu mươi
Cỏ non xanh đến tận chân trời
Cành lê trắng đặc điểm vài bông hoa.
Hai câu thơ đầu nhấn mạnh về thời gian và không gian của mùa xuân. Hình ảnh “chim én đưa thoi” không chỉ muốn thể hiện tiết xuân ấm áp, muôn chim bay về mà còn muốn diễn đạt sự nhanh chóng của thời gian, như con thoi quay vòng khi dệt vải. Mùa xuân kéo dài ba tháng, giờ đã là tháng ba. Trong những ngày cuối cùng của mùa xuân, những đàn én vẫn bay trên bầu trời rộng lớn.
Hai câu thơ sau tạo nên bức tranh tuyệt đẹp về cảnh sắc mùa xuân với những hình ảnh hài hòa. Thảm cỏ non mênh mông trải dài đến tận chân trời tạo nền cho bức tranh xuân tươi đẹp vô tận. Trên nền xanh mát đó, những bông hoa được điểm xuyết nhẹ nhàng, tạo nên vẻ đẹp trong trẻo của mùa xuân.
Tác giả sử dụng nghệ thuật đảo ngữ “trắng” đặt trước động từ “điểm” nhằm tôn vinh vẻ đẹp tinh khôi của hoa xuân. Cái hồn riêng của mùa xuân hiện lên trong không gian rộng lớn. Mặc dù hoa cỏ vô tri vô giác, nhưng từ “điểm” được sử dụng tinh tế khiến cho cánh hoa lê trở nên sống động, đầy cảm xúc. Tám câu thơ tiếp theo mô tả không khí của lễ hội trong tiết Thanh Minh.
Thanh Minh trong tháng ba
Lễ là tảo mộ, hội là vui chơi
Khắp nơi đều rộn ràng, hân hoan đón chờ
Các chị em chuẩn bị trang phục mới để đi chơi xuân
Các tài tử và mỹ nhân đi dạo bước nhẹ nhàng
Xe ngựa chạy như nước, áo quần như lớp sương mờ
Đường phố đông đúc, nhộn nhịp kéo dài
Con thoi đưa gió vàng, tiền giấy bay lên như mây
Vào ngày Thanh Minh, đầu tháng ba, mùa xuân với khí trời mát mẻ, người ta thường đi tảo mộ để sửa sang lại phần mộ của người đã khuất như một sự tri ân. Mùa xuân cũng là thời điểm để tham gia các hoạt động giải trí, tham gia lễ hội để chào đón năm mới. Việc gặp gỡ nhau sau một năm làm việc đã trở thành một truyền thống tốt đẹp trong văn hóa Việt Nam. Sau phần tảo mộ là lễ hội, được gọi là hội đạp thanh, là dịp để gặp gỡ bạn bè, người thân.
Những câu thơ của Nguyễn Du mô tả một không khí lễ hội bằng hàng loạt từ ngữ liên tiếp thể hiện sự đông đúc, vui tươi như “yến anh, chị em, tài tử giai nhân” cùng với các tính từ như “nô nức, sắm sửa, gần xa, dập dìu”. Hình ảnh những thanh niên và phụ nữ mặc quần áo tráng lệ đi chơi lễ hội như những đàn chim ríu rít. Chúng ta thấy được sức sống, thấy được sự tươi mới, trẻ trung phủ lên cảnh vật.
Cụm từ “nô nức yến anh” và “ngựa xe như nước, áo quần như nêm” giúp người đọc hình dung cảnh lễ hội này vô cùng sôi động với mọi người liên kết nhau như dòng nước không ngừng chảy, mặc những bộ trang phục tuyệt đẹp. Trong lễ tảo mộ, người ta rải thảo vàng, xỏ tiền giấy vào hàng loạt để nhớ đến những người đã khuất nên mới có hình ảnh “thoi vàng vó rắc, tro tiền giấy bay”.
Tám câu thơ đã mô tả cảnh lễ hội ngày Thanh Minh, không chỉ tạo ra hình ảnh của truyền thống lễ hội xa xưa mà còn thể hiện được bức tranh tưng bừng của ngày hội. Sáu câu thơ cuối cùng, tác giả tập trung vào việc mô tả cảnh chị em Thúy Kiều đi chơi xuân:
Tà tà, bóng đổ về phía tây
Chị em dừng lại, vòng tay vẫy vùng ra về
Bước từ từ theo dòng suối nhỏ,
Phong cảnh thơ mộng nhẹ nhàng
Dòng nước uốn quanh êm đềm
Cầu nhỏ cuối dòng chảy êm
Buổi chiều, mặt trời từ từ khuất về phía Tây. Ngày lễ hội đã kết thúc, chị em Thúy Kiều dắt tay nhau rời đi. Cảnh chiều xuân được mô tả dịu dàng, thanh khiết: ánh nắng buông dần, nhịp cầu nhỏ nằm ngang trên dòng nước. Mọi hoạt động trở nên chậm rãi, nhưng thú vị không kém, như mặt trời rơi bóng lên nhà, bước chân người trở nên bình yên, ung dung.
Cảnh vẫn đẹp nhưng có một vẻ buồn, một loạt cảm xúc sau những niềm vui. Nhưng không chỉ vậy, những từ ngữ như 'thanh thanh', 'nao nao' không chỉ mô tả phong cảnh mà còn thể hiện tâm trạng của con người.
Từ 'nao nao' vẫn đọng lại nỗi buồn, nỗi buồn mà chỉ con người mới hiểu được. Có vẻ như câu thơ này là dự báo cho những biến cố sắp xảy ra, khi Thúy Kiều gặp Kim Trọng và những khó khăn trong cuộc đời. Chắc chắn, tác giả cũng cảm thấy đầy tiếc thương cho số phận của nhân vật hồng nhan bạc mệnh.
Với bút pháp nghệ thuật và khả năng tả cảnh đặc sắc, sử dụng những từ ngữ chính xác, những từ ngữ tinh tế, Nguyễn Du đã vẽ lên một bức tranh sinh động về cảnh sắc thiên nhiên mùa xuân, con người hòa mình vào bức tranh tươi sáng, đầy sức sống ấy. Người đọc cảm nhận được vẻ đẹp của mùa xuân, sự hòa hợp giữa con người và thiên nhiên.
Phân tích Cảnh ngày xuân - mẫu 2
Nguyễn Du sinh năm 1820, là một người con của làng quê Tiên Điền, Hà Tĩnh. Sinh ra trong gia đình có truyền thống văn học, ông đã thừa hưởng khả năng văn chương từ nhà và mang tinh thần nhân đạo trong thơ của mình. Trải qua nhiều khó khăn, ông hiểu rõ nỗi đau của người dân, luôn dành tình cảm sâu sắc cho những người khó khăn.
Truyện Kiều là tác phẩm vĩ đại của Nguyễn Du về cuộc đời của Thúy Kiều, một người con gái tài năng và bất hạnh. Không chỉ xuất sắc trong việc vẽ nên hình ảnh của nhân vật, Nguyễn Du còn làm cho thiên nhiên trong tác phẩm sống động, đẹp đẽ. Đoạn trích 'Cảnh ngày xuân' là minh chứng cho điều này.
Nguyễn Du không chỉ giỏi trong việc mô tả nhân vật mà còn tài năng trong việc miêu tả thiên nhiên. Đoạn trích 'Cảnh ngày xuân' là một trong những ví dụ xuất sắc nhất cho điều này.
'Ngày xuân con én đưa thoi
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi
Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng chăm sóc vài bông hoa'
Nếu mùa hè đến với tiếng ve rộn ràng, mùa đông qua với tuyết trắng phủ, thì mùa xuân lại đem đến hình ảnh chim én đong đưa. Chim én là biểu tượng của mùa xuân, của thiên nhiên trong mùa xuân. Trời xanh những đám mây trôi, có 'ánh nắng' ấm áp, tươi sáng, có chim én bay lượn giữa bầu trời.
'Cỏ non xanh đến chân trời
Cành lê trắng chăm sóc vài bông hoa'
Những thảm cỏ non xanh mướt kéo dài tận chân trời, tạo nên một không gian mở rộng, màu xanh làm sống lại, mang theo hy vọng, may mắn và lòng nhân từ. Nếu trên bầu trời có hình ảnh của những chim én bay thơ mộng, thì dưới chân trời có những bãi cỏ xanh mát, rộng lớn.
Và ở đó, những bông hoa lê trắng tinh khôi, được chăm sóc tự nhiên, hòa quyện hài hòa với màu xanh của lá, màu trắng của hoa lê tạo nên một vẻ đẹp gợi cảm, lôi cuốn. Trong thơ cổ Trung Quốc, có những câu thơ miêu tả mùa xuân bằng những từ ngữ rất tinh tế: 'Những cành lê điểm chăm sóc bởi hoa'.
Trong tác phẩm này, Nguyễn Du đã sử dụng một cách sáng tạo để miêu tả vẻ đẹp mùa xuân của dân tộc, vẻ đẹp mùa xuân của Việt Nam, của thiên nhiên mang cả hồn Việt. Nếu như thơ cổ thường dùng hương vị, đường nét, thì thơ của Nguyễn Du lại thể hiện cả màu sắc, đường nét và cả nhịp điệu nhẹ nhàng nhưng đầy tinh tế của những bông hoa lê thông qua nghệ thuật đảo ngữ, khiến cho hoa lê trở nên lung linh trong không khí xuân.
Có thể thấy, chỉ bốn câu thơ đầu ấy, Nguyễn Du đã tạo nên một bức tranh, vừa mạch lạc, thanh bình lại vừa sống động, tươi vui. Như thể, trái tim mỗi người đang trong trạng thái hạnh phúc, hân hoan thưởng thức vẻ đẹp của thiên nhiên tuyệt vời này.
Mùa xuân là thời điểm sum họp vui vẻ, các cuộc dạo chơi và lễ hội sôi động. Ở Việt Nam, vào tiết tháng ba âm lịch, có lễ hội đạp thanh và tảo mộ truyền thống. Nguyễn Du đã tái hiện lại không khí của lễ hội này thông qua những câu thơ:
'Thanh minh trong tiết tháng ba
Lễ là tảo mộ, hội là đạp thanh'
Hội đạp thanh là thời điểm mọi người cùng tham gia cuộc du xuân, đặc biệt là các bạn trẻ, đang trong tuổi trẻ. Đó là những ngày vui mừng mà mọi người đều mong chờ. Lễ tảo mộ là cơ hội cho mọi người trong gia đình quay về, cùng nhau sắp xếp mộ ông bà, thắp những ngọn nến để nhớ đến những người đã khuất, như một cách tri ân, biết ơn sâu sắc. Nguyễn Du, với sự nhạy cảm, đã tái hiện lại không khí của lễ hội này qua những câu thơ sau:
'Gần xa nô nức yến anh
Chị em chuẩn bị trang phục, chuẩn bị đi chơi xuân
Những người đẹp tỏa sáng, thu hút mọi ánh nhìn
Xe ngựa lẹ như nước, trang phục như muối
Nghệ thuật diễn đạt tinh tế thông qua sự phối hợp của các tính từ và danh từ ghép để mô tả cảnh vui chơi hân hoan, phấn khích, tràn đầy hứng khởi. Mỗi người trong đám 'chị em' đều trang hoàng cho mình những bộ quần áo lộng lẫy để tham dự hội chợ. Từ khắp nơi, mọi người, cả nam và nữ, đang hân hoan, háo hức bước đi, tay trong tay, rủ nhau đến nơi hội tụ, trong bộ trang phục lộng lẫy, họ ríu rít như đàn chim bay về nơi hạnh phúc.
Ở đây, chúng ta cũng có thể thấy hình ảnh các chị em, bao gồm cả nàng Kiều xinh đẹp, họ đều đang tận hưởng niềm vui và sức sống của tuổi thanh xuân tươi mới. Sau phần vui chơi hân hoan là lễ trang trọng, ảo diệu:
Gò đống cao ngất lên
Thảm vàng phủ kín, tiền giấy bay theo gió
Đứng trước hồn của những người đã khuất, lòng người không khỏi xót xa, nhớ nhung. Sự 'ngổn ngang' này sâu sắc trong tâm hồn. Nhịp thơ chầm chậm như để chia sẻ cảm xúc, lòng bi ai của con người vẫn luôn cầu chúc cho sự an bình, hạnh phúc nhất đến với tổ tiên.
Cuộc vui nào cũng đến lúc tan, cuộc gặp gỡ nào cũng phải chia xa. Dù ban mai vui tươi, tiếng cười nói còn vang vọng, nhưng giờ đã chiều tà, mọi người phải quay về trong nỗi tiếc nuối, nỗi buồn bã:
'Bóng chiều về phía tây,
Chị em thong thả bước về
Bước dần theo con đường nhỏ
Lần nhìn phong cảnh bình yên
Dòng nước uốn quanh nao nao
Chiếc cầu cuối dòng, nhỏ bé bên bờ
Khi bình minh buông, lòng người nhiều tâm trạng u sầu. Nếu cảnh xuân ban đầu mở rộng, rộng lớn, thì lúc này, không gian như co lại, cảnh êm đềm mang chút buồn buồn. Chị em Kiều 'thơ thẩn' dắt nhau về, lòng tiếc nuối cuộc vui.
Cảnh xuân buổi chiều, dịu dàng, yên bình nhưng không tươi vui và sôi động như trước. Cụm từ 'nhỏ nhỏ', 'thanh thanh', 'nao nao' càng làm cho cảm giác xuyến xao, hoài niệm sâu sắc hơn. Trong đoạn này, tác giả sử dụng nghệ thuật 'tả cảnh ngụ tình' đầy độc đáo, cảnh vẫn mang màu sắc của tâm trạng, gợi nhớ về thời gian trước đây.
Thơ không chỉ đẹp mà còn chứa đựng tình cảm. Thơ không chỉ nói về giấc mơ, nỗi lòng của nhà thơ mà còn thể hiện khát vọng, ước mơ của người đọc. Đoạn trích 'Cảnh ngày xuân' đã thể hiện tinh thần nhạy cảm, tài năng xuất chúng của Nguyễn Du, đại thi hào dân tộc.
Phân tích Cảnh ngày xuân - mẫu 3
Mùa xuân là thời của hoa thơm, cỏ lạ, của lễ hội dân gian, đã được Nguyễn Trãi, Trần Nhân Tông, Hàn Mặc Tử… nói đến trong thơ. Trong bức tranh mùa xuân đẹp đẽ của Nguyễn Du trong “Cảnh ngày xuân”, mùa xuân lễ hội mang lại hương vị mới.
Từ đỉnh đồi cao, mùa xuân hiện ra trước mắt ta là một không gian vô tận trong ánh nắng ấm của bình minh. Đã đến tháng ba, bầu trời không còn quá xanh như mùa thu, nhưng đủ để nhìn thấy những cánh én rộn ràng bay lượn:
“Con én ngày xuân đưa thoi
Thiều quang đã đi qua sáu mươi ngày.
Cái 'thoi đưa' của cánh én hay chính thời gian mùa xuân trôi đi nhanh chóng. Trên nền không gian rộng lớn đó, một bức tranh nhỏ bé về mùa xuân được vẽ ra như một bức tranh thêu hoa lụa tinh xảo:
'Cỏ non xanh bao la tận chân trời
Cành lê trắng chót vót vài bông hoa'
Màu xanh của cỏ tạo nền cho bức tranh màu trắng của hoa lê, làm cho bức tranh trở nên tinh khôi, nhẹ nhàng và quyến rũ hơn. Nguyễn Du đã tài hoa khi sử dụng hai gam màu chính để miêu tả mùa xuân, một mùa xuân thanh nhã đến thế. Chúng ta đã từng thấy hồn của mùa xuân trong thơ Nguyễn Trãi:
'Cỏ xanh như khói, bên bến xuân tươi
Còn mưa xuân vẫn rơi vỗ trời'
Đây là hình ảnh mùa xuân trên một sườn đồi như trong thơ của Hàn Mặc Tử: “Sóng cỏ xanh tươi như bức tranh”. Và đây là cảnh trẩy hội đông đúc vui tươi náo nhiệt:
“Gần xa rộn rã yến anh
Chị em tô điểm bộ trang phục chơi xuân
Ngựa xe trôi chảy như dòng nước, áo quần như lụa mềm”
Biết bao tài tử và mỹ nhân, dẫn dắt nhau tay trong tay, bước chân theo nhịp điệu của đám đông, ngựa xe cuồn cuộn, áo quần rực rỡ và tươi sáng. Cách diễn đạt ẩn dụ “rộn rã yến anh” hình ảnh đoàn người đông đúc rộn ràng, hân hoan như chim oanh và chim én trong mùa xuân.
Nhưng đẹp nhất và lộng lẫy nhất vẫn là những nam thanh nữ tú, họ là hồn của bức tranh xuân. Không khí lễ hội được đại thi hào miêu tả cụ thể và tỉ mỉ. Đó là nét đẹp văn hóa truyền thống của người phương Đông, thể hiện sự 'phong lưu' của chị em Thúy Kiều. Trời đã buông tà, mặt trời đã lặn núi:
'Tà tà, bóng dần về phía tây'
'Chị em dạo bước tay trong tay ra về'
Nhịp thơ chầm chậm như những bước chân nhẹ nhàng, như nỗi lòng lưu luyến của con người khi buổi hội kết thúc. Cảnh vẫn thanh nhẹ, nhưng tất cả đều diễn ra từ từ. Mặt trời dần buông bóng về phía tây, bước chân của con người thì 'dạo bước tay trong tay ra về', dòng nước uốn lượn êm đềm. Nhưng không còn không khí sôi động của lễ hội nữa.
Cái 'nao nao' của dòng nước hoặc cái bâng khuâng xao xuyến của dòng người. Rõ ràng cảnh mùa xuân vào lúc hoàng hôn đã nhuốm màu tâm trạng. Đại thi hào dường như đang cảm nhận trước một biến cố sắp xảy ra. Chỉ trong ít phút nữa, Kiều sẽ gặp mộ Đạm Tiên, sẽ gặp chàng thư sinh hào hoa Kim Trọng.
Bằng tài năng quan sát tinh tế, bằng sự nhạy cảm của một tâm hồn thơ, cách sử dụng từ ngữ hình ảnh sinh động, Nguyễn Du đã sáng tạo ra một bức tranh về mùa xuân đẹp, đầy hồn và độc đáo. Chính tình yêu thiên nhiên và đất nước đã truyền cảm hứng để ông tạo ra một bức tranh mùa xuân đặc biệt trong kho tàng thi ca Việt Nam.
Phân tích Cảnh ngày xuân - mẫu 4
Trong thơ xưa, thiên nhiên không chỉ là trung tâm của cái đẹp mà còn là nơi thể hiện tâm tình của con người. Và trong 'Truyện Kiều' của đại thi hào Nguyễn Du, có 222 câu thơ miêu tả cảnh thiên nhiên. Đoạn trích 'Cảnh ngày xuân' có thể xem như một bức tranh tinh túy nhất.
Chỉ với 18 câu thơ hàm súc, Nguyễn Du đã truyền đạt sức sống phong phú của mùa xuân vào lòng người đọc. Đồng thời, ông đã giúp chúng ta nhận ra sự tinh tế trong cách miêu tả giàu chất tạo hình của mình. Đoạn thơ đã mở ra trước mắt chúng ta một cảnh xuân trong tiết thanh minh, qua bốn câu thơ đầu:
'Ngày xuân con én đưa thoi
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi
Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”
Nguyễn Du đã vẽ nên bức tranh xuân thật đẹp, đặc sắc, đặc biệt khi ông chọn lựa các chi tiết tiêu biểu mang nét đặc trưng của mùa xuân để mô tả. Đọc hai câu thơ đầu, ta cảm nhận được cách tính thời gian khá độc đáo, nghệ thuật miêu tả ước lệ bộc lộ rõ đã tái hiện hình ảnh báo hiệu mùa xuân “chim én”, “thiều quang” gợi sự ấm áp, dịu dàng, khẳng định mùa xuân đang ở độ đẹp nhất, chín nhất, sung mãn nhất.
Câu thứ hai đã chỉ ra rằng ngày xuân trôi qua nhanh chóng như con thoi dệt cửa, đã qua tháng giêng, tháng hai, bây giờ là tháng ba, tiết trời trong xanh, những con én rộn ràng chao đảo như nhịp thoi đưa trên bầu trời, tạo ra một không gian thoáng đãng cao rộng, gợi lên nhịp trôi chảy của thời gian và nhịp điệu sôi động của mùa xuân, đồng thời cũng thể hiện sự tiếc nuối về thời gian trôi qua nhanh chóng của Nguyễn Du, để rồi, thiên nhiên trở nên đẹp hơn với sắc “xanh” của cỏ non, sắc “trắng” của “một vài bông hoa” lác đác.
'Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”
Đây mới thực sự là một bức tranh tuyệt vời. Tác giả đã sử dụng biện pháp chấm phá để tái hiện bức tranh mùa xuân tươi vui, sống động, gợi lên hình ảnh về sự sống phấn khởi và nảy nở. Màu xanh của cỏ non mang lại cảm giác sức sống mạnh mẽ, bất diệt, trong khi không gian mênh mông và thoáng đãng. Trên nền xanh ấy, có những điểm nhấn là một vài bông hoa lê trắng. Nguyễn Du đã học hỏi từ văn cổ thi Trung Quốc một cách sáng tạo, như câu: “Phương thảo niên bích/ Lê chi sổ điểm hoa.”
Nếu hai câu thơ của văn cổ thi Trung Quốc sử dụng hình ảnh 'phương thảo' (cỏ thơm) để tạo hình ảnh về mùi vị, thì Nguyễn Du lại thay bằng 'cỏ non' để tạo ra một hình ảnh về màu sắc: màu xanh nhạt kết hợp với màu vàng chanh tươi sáng, tạo thành gam màu nền cho bức tranh. Trên đó, có những điểm nhấn là sắc trắng trong trẻo, tinh khôi của hoa lê, tạo nên một bức tranh tươi sáng, hài hòa, mới mẻ.
Việc thêm từ 'trắng' và đặt nó lên đầu câu đã tạo ra một ấn tượng mạnh mẽ hơn. Từ 'điểm' khiến cho cảnh vật trở nên sống động, sinh động hơn, không còn tĩnh lặng mà thay vào đó là sự hồn nhiên, sôi động, như bàn tay của họa sĩ - nhà thơ tạo nên một bức tranh vừa sống động, vừa tinh tế.
Bằng ngòi bút tài hoa, Nguyễn Du đã phối hợp màu sắc một cách tài tình, sử dụng ngôn ngữ biểu cảm để miêu tả và gợi lên hình ảnh về tâm hồn người trong trẻo và phấn chấn khi nhìn nhận thiên nhiên, nhạy cảm và tha thiết với vẻ đẹp của tự nhiên. Bốn câu thơ lục bát nhẹ nhàng này tạo nên một không gian thoải mái, ấm áp của mùa xuân, và để lại dấu ấn sâu sắc trong lòng độc giả.
Mùa xuân là thời điểm khởi đầu mới trong năm, là lúc cây cỏ mọc um tùm, tâm hồn con người phơi phới. Đây cũng là thời điểm diễn ra nhiều lễ hội nhất. Trong thơ của Nguyễn Du, ông mô tả khung cảnh lễ hội trong tiết thanh minh, và tám câu thơ sau mô tả cảnh vui tươi và sôi động của các lễ hội: 'Lễ là tảo mộ hội là đạp thanh'.
Tác giả đã đưa ta về với những lễ nghi và tập quán của người phương Đông, lễ tảo mộ là sự tri ân đối với tổ tiên, văn hóa và truyền thống của dân tộc. Việc đi tảo mộ là để tưởng nhớ và thắp hương cho người đã khuất, còn “hội đạp thanh” là cuộc du xuân, cuộc vui chơi trên cánh đồng xanh của trai gái, nam nữ tuấn tú, đồng thời là cuộc sống hiện tại và hy vọng cho tương lai.
Ở bốn câu thơ tiếp theo, tác giả đã mô tả không khí của lễ hội bằng các từ ngữ phong phú như “nô nức”, “dập dìu”, “sắm sửa” và các cụm từ Hán Việt như “tài tử”, “giai nhân”, “bộ hành”, “ngựa xe”, “gần xa”, “yến anh”, kết hợp với các biện pháp nghệ thuật như ẩn dụ, so sánh, tạo nên hình ảnh sống động về sự vui vẻ, phấn khích và sôi động của lễ hội khắp nơi trên đất nước.
'Rộn ràng tài tử, giai nhân dập dìu
Ngựa chạy như nước, áo quần như nêm”
Lễ thanh minh – một lễ hội tiêu biểu của tháng ba, cặp đôi 'tài tử giai nhân” hân hoan du xuân, gặp gỡ hòa mình vào không khí vui vẻ. Trong dòng người đông đúc, ba chị em Thúy Kiều cũng tham gia và hòa mình vào vẻ đẹp của tuổi trẻ. Hình ảnh so sánh 'ngựa chạy như nước, áo quần như nêm” mô tả số đông nhộn nhịp trong lễ hội, mọi người mặc trang phục đẹp, tươi sáng nhưng vẫn tự nhiên và gần gũi.
Họ như những đàn chim én, chim hoàng anh ríu rít về tụ hội trong lễ hội. Tác giả còn mô tả vẻ đẹp của nền văn hóa truyền thống Việt Nam trong ngày Tết thanh minh. Đó là hình ảnh của thoi vàng và giấy tiền được đốt cháy để nhớ đến người đã khuất:
'Ngọn lửa bốc lên, khói bay phưng phức
Thoi vàng phủ lên, giấy bay bay
Nhịp điệu của thơ 2/4 và 4/4 mang nét buồn. Có lẽ đó là trái tim đầy tình cảm của đại thi hào Nguyễn Du dành cho những người đã khuất. Sự tận tụy, niềm tin sâu sắc vào dân gian, đầy tình yêu thương. Dưới bút tinh tế của nhà thơ, lễ hội trong ngày thanh minh trở thành một sự hòa quyện độc đáo, chứng tỏ sự trân trọng của ông đối với văn hóa truyền thống của dân tộc.
Nếu những dòng thơ trên mô tả cảnh vui tươi, đông đúc của lễ hội, thì sáu câu thơ cuối cùng tạo ra một bức tranh trữ tình và buồn bã theo từng bước chân của chị em Thúy Kiều:
“Bóng chiều dần khuất phía tây,
Chị em buông tay, thơ thẩn ra về
Bước chậm theo bờ kênh rạch,
Ngắm phong cảnh, lòng đầy than thở
Nước uốn quanh, làn sóng lướt nhẹ
Góc sân nhỏ cuối con đường vắng
Buổi chiều dịu dàng, tiếng chim ríu rít trên cành
Khung cảnh yên bình, bóng dương nghiêng nghiêng
Tâm trạng buồn vương vấn, hồn nhân viên tình khúc
Gặp nạn nhân tài sắc, định mệnh trước định sẵn
Sự tương hợp của tình cảm và cảnh vật
Tóm lại, thông qua việc sử dụng các từ ghép và từ ngữ giàu sức hình dung, giàu cảm xúc, đoạn trích “Cảnh ngày xuân” được xem là một tác phẩm nghệ thuật đẹp nhất, tạo nên sức lôi cuốn cho tác phẩm “Truyện Kiều”. Với bút pháp tài tình mô tả thiên nhiên của Nguyễn Du, cảnh vật hiện lên tươi đẹp, trong sáng và đầy màu sắc cảm xúc, đó chính là yếu tố làm nên thành công của đoạn trích và đã giúp tên tuổi của đại thi hào Nguyễn Du trở nên gần gũi hơn với độc giả khắp nơi trên thế giới trong mọi thời đại.
Phân tích Cảnh ngày xuân - mẫu 5
Trái với việc trong đoạn “Chị em Thúy Kiều”, đọc giả đã thấy được tài năng nghệ thuật tả người của Nguyễn Du qua cách mô tả bức chân dung duyên dáng, tài năng toàn vẹn của hai chị em Vân - Kiều, thì trong đoạn trích “Cảnh ngày xuân”, người đọc một lần nữa lại được trải nghiệm nghệ thuật tả cảnh, tả tình độc đáo của Nguyễn Du trong bức tranh mùa xuân đầy sắc màu tâm hồn con người.
Đoạn trích “Cảnh ngày xuân” ngay sau đoạn tả vẻ đẹp và tài năng của chị em Thúy Kiều. Thông qua những câu thơ này, Nguyễn Du đã tạo dựng nên bức tranh về thiên nhiên và lễ hội mùa xuân trong bầu không khí sôi động, tươi vui của tiết Thanh Minh. Đây là đoạn thơ mở đầu, chuẩn bị tâm trạng cho cuộc du xuân của Kiều, Kim – Kiều đã gặp nhau và bắt đầu mối tình...
Trước hết, bốn câu thơ đầu tiên, với cách sử dụng từ ngữ độc đáo, Nguyễn Du đã tạo nên một bức tranh về mùa xuân tươi đẹp, tràn đầy sức sống:
Ngày xuân con én bay qua
Ánh sáng buổi sáng đã ngoài sáu mươi ngày
Thảm cỏ xanh ngút ngàn vô tận
Cành lê trắng đốm vài đóa hoa.
Hai dòng thơ đầu vừa đề cập đến thời gian vừa làm nổi bật không gian. Ngày xuân trôi đi nhanh như thoi đưa. Mùa xuân đã trôi qua chín mươi ngày, từ tháng giêng đến tháng hai và bước vào tháng thứ ba. Ánh sáng của ngày xuân nhẹ nhàng, trong trẻo, lan tỏa khắp nơi.
Trên bầu trời cao, đàn én mùa xuân vẫy vùng bay lượn. Dưới chân trời là thảm cỏ xanh mênh mông vô tận. Động từ “ngút” khiến cho không gian mùa xuân mở rộng, trải dài ra vô biên và bao phủ cả không gian xuân bằng màu xanh của cỏ non. Trên thảm cỏ xanh tươi ấy là những đóa hoa lê trắng đẹp, nhấn nhá tinh khôi, mới mẻ.
Việc sử dụng biện pháp đảo ngữ giúp làm nổi bật hơn sức trắng của hoa lê trên nền cỏ xanh mùa xuân. Chỉ qua bốn câu thơ ngắn gọn nhưng với cách diễn đạt tinh tế, Nguyễn Du đã tạo ra một bức tranh xuân tươi mới, trong lành, trong trẻo và đầy sức sống, mang hơi thở của đất trời Việt Nam.
Tám câu thơ tiếp theo, một bức tranh về lễ hội trong tiết thanh minh mùa xuân. Ở hai dòng thơ đầu, tác giả đã giới thiệu tổng quan về hai hoạt động chính của mùa xuân: lễ tảo mộ và hội đạp thanh trong tiết tháng ba mùa xuân.
Thánh minh nơi tháng ba rồi
Lễ tảo mộ, hội đạp thanh
Lễ tảo mộ là biểu tượng của lòng biết ơn và tôn trọng tiên tổ, qua việc làm sạch và trang trí mộ phần của người đã khuất trong gia đình. Sau khi lễ tảo mộ kết thúc, lễ hội đạp thanh là dịp để thanh niên gặp gỡ, hẹn hò, giao duyên. Không khí rộn ràng, nhộn nhịp trong những ngày lễ hội mùa xuân được Nguyễn Du mô tả qua các từ ngữ sắc nét:
Gần xa đông đúc người vui chơi
Anh em chuẩn bị trang phục mới vui đùa
Người đàn ông, phụ nữ đi lại nhộn nhịp
Đám đông như sóng nước; trang phục đa dạng như gia vị.
Từ ngữ (gần xa, đông đúc, anh em, người đàn ông, phụ nữ) kết hợp với các từ miêu tả (đông đúc, chuẩn bị) tạo nên bầu không khí rộn ràng, vui vẻ của lễ hội xuân. Hình ảnh “gần xa đông đúc người vui chơi” như chim én, chim oanh tung bay, sôi động, đầy nhiệt huyết. So sánh “Đám đông như sóng nước; trang phục đa dạng như gia vị” mô tả sự đông đúc và sự đa dạng của trang phục trong lễ hội xuân.
Tóm lại: Bằng cách sử dụng các phương tiện văn chương như ẩn dụ, so sánh, cùng với việc lựa chọn từ ngữ phong phú, nhà thơ đã tạo ra một bức tranh mùa xuân rực rỡ sắc màu, đầy sôi động, cùng với sự xuất hiện của những người đẹp trai, xinh đẹp, trai tài gái sắc. Trong ngày hội xuân này không chỉ có niềm vui mà còn có những khoảnh khắc lặng lẽ của lễ tảo mộ, như hai câu thơ sau:
Đống gò cao vươn lên
Rồi thoi vàng, tiền giấy bay trong gió
Nếu hội đạp thanh hiện ra với không khí hân hoan, nhộn nhịp, thì lễ tảo mộ lại đem lại một chút buồn về phía trước và nhấn mạnh vào đạo lý biết ơn và tôn trọng với việc rải thoi vàng, đốt vàng mã cho người đã khuất. Điều này làm nổi bật truyền thống “Uống nước nhớ nguồn” và lòng biết ơn, lòng trung thành tốt đẹp của văn hóa dân tộc.
Thông qua tám câu thơ, tác giả đã thành công trong việc mô tả truyền thống văn hóa lễ hội mùa xuân của dân tộc. Đồng thời, đây cũng là một phương tiện nghệ thuật sâu sắc: sử dụng ngày hội lớn như một bối cảnh, một tiền đề để miêu tả cuộc gặp gỡ quan trọng giữa Thúy Kiều và Kim Trọng.
Ở sáu câu thơ cuối, qua nghệ thuật “tả cảnh ngụ tình”, Nguyễn Du đã mô tả cảm giác kết thúc của ngày hội xuân, mang đậm nỗi buồn xao xuyến trong lòng người. Đó là khung cảnh Thúy Kiều và chị em trở về sau một ngày dài:
Bóng chiều dần buông về phía tây
Chị em dạo bước về đan tay
Đi dọc theo bên bờ tiểu rạch
Lang thang ngắm cảnh thanh bình
Dòng nước uốn quanh nhẹ nhàng
Dòng sông nhỏ cuối dốc bắc
Khung cảnh vẫn mang đậm nét dịu dàng, êm đềm của ngày xuân nhưng bóng dương đã “tà tà ngả về phương tây”. Sự sôi động, hân hoan của ngày hội xuân cũng đã kết thúc. Trong lòng xen lẫn những cảm xúc bâng khuâng, xao xuyến. Cảnh vật không gian được thu gọn lại trong bước chân của người trở về, của dòng nước nhỏ và chiếc cầu nho nhỏ.
Những từ như “dịu dàng, tĩnh lặng, thơ thẩn, thanh bình” không chỉ mô tả trạng thái của cảnh vật mà còn thể hiện tâm trạng của con người: lưu luyến, bâng khuâng, hoài niệm hoàn toàn trái ngược với không khí của ngày lễ hội mùa xuân vào buổi sáng sớm. Đồng thời truyền đạt vào lòng người đọc cảm giác về một điều sắp xảy ra, như một dấu hiệu cho cuộc gặp gỡ sắp tới giữa Thúy Kiều và Kim Trọng.
Tóm lại, thông qua việc sử dụng bút pháp tả cảnh ngụ tình, kết hợp với việc áp dụng hệ thống từ láy, hình ảnh giàu tính tạo hình và biểu cảm, tác giả đã mô tả được bức tranh chiều tà trong ngày hội xuân, lấy cảm xúc của nhân vật. Điều này làm nổi bật tài năng miêu tả tâm trạng con người của Nguyễn Du.
Trong 'Kim Vân Kiều truyện' của Thanh Tâm Tài Nhân, chỉ có một câu dẫn dắt 'một hôm nhằm vào tiết Thanh minh...' để mô tả cuộc gặp gỡ nấm mồ Đạm Tiên và Kim Trọng. Nguyễn Du đã sử dụng điều này để tạo ra một bức tranh mùa xuân tươi đẹp bằng thơ, với vẻ đẹp độc đáo, phản ánh rõ nét cảnh vật xuân Việt.
Đoạn trích 'Cảnh ngày xuân' là minh chứng rõ nét cho tài năng nghệ thuật 'tả cảnh ngụ tình' của Đại thi hào Nguyễn Du. Dưới bàn tay sáng tạo và tinh tế, cùng với cảm xúc nghệ thuật độc đáo về mùa xuân, Nguyễn Du đã thành công trong việc tái hiện một bức tranh thiên nhiên, lễ hội xuân tươi đẹp, sống động và sâu lắng trong lòng người.
Phân tích Cảnh ngày xuân - mẫu 6
Nguyễn Du sinh ra và lớn lên trong một gia đình quý tộc với truyền thống làm quan kéo dài nhiều đời. Ông là một nhà nho kiệt xuất và cũng là một đại thi hào vĩ đại của văn học Việt Nam. Tác phẩm Truyện Kiều của Nguyễn Du không chỉ nổi tiếng trong nước mà còn được biết đến trên toàn thế giới. Đoạn trích “Cảnh ngày xuân” miêu tả cảnh ngày xuân và hình ảnh chị em Thúy Kiều đi du xuân.
“Cảnh ngày xuân” là một bức tranh mùa xuân sống động và đặc sắc với âm thanh, ánh sáng,.. mà Nguyễn Du đã mô tả sinh động trong Truyện Kiều. Ngày xuân ấy được phản ánh qua bức tranh thiên nhiên của tác giả.
“Ngày xuân con én đưa thoi
Thiều quang đã qua sáu mươi ngày
Cỏ non mênh mông đến chân trời
Cành lê trắng rợp một vài bông hoa
Ngày xuân, chim chóc đủ loài đều bay nhảy vui vẻ. Và chim én, biểu tượng của mùa xuân, cũng không tránh khỏi sự nô nức bay lượn. Chim én bay lượn như thoi đưa, tượng trưng cho sự nhanh chóng của mùa xuân. Ngoài ra, Nguyễn Du cũng khéo léo sử dụng từ ngữ như “thiều quang”, “cỏ non”, “cành lê trắng”,... để mô tả cảnh vật một cách sinh động.
Từ những từ ngữ miêu tả đó, Nguyễn Du đã tạo ra một khung cảnh xuân đẹp đến mê mẩn, khiến mọi người mong chờ được thưởng thức. Ánh sáng rực rỡ, bầu trời xanh ngắt, và những bông hoa nhẹ nhàng nhấp nhô. Khung cảnh ấy thực sự làm người ta say mê! Từ đó, hình thành nên một bức tranh của ngày xuân tràn đầy sức sống.
Cảnh thiên nhiên vừa đẹp vừa thơ mộng, đầy sức sống như vậy. Và cảnh lễ hội trong tiết thanh minh cũng không kém phần náo nhiệt. Những người tham gia lễ hội nô đùa qua lại tạo nên không khí vui tươi cho tiết thanh minh, không còn lạnh lẽo như nhiều người nghĩ.
“Thanh minh trong tháng ba
Lễ tảo mộ, hội đạp thanh
Đông người, xa gần, yến anh vẫy vùng
Chị em tất bật chuẩn bị để đi chơi xuân
Khi nhắc đến ngày tiết thanh minh, không thể không nhắc đến hai lễ hội: 'tảo mộ', 'đạp thanh'. Hai lễ hội này thể hiện sự nghiêm trang của ngày xuân, đặc biệt là trong tiết thanh minh. Nguyễn Du sử dụng các từ ngữ để mô tả hình ảnh những người tham gia lễ hội di chuyển một cách náo nhiệt và sôi động.
Bên cạnh đó, Nguyễn Du cũng sử dụng từ ngữ 'yến anh' để gợi lên hình ảnh của chim én, loài chim thường xuất hiện vào mùa xuân, bay lượn với nhịp nhàng. Điều này làm nổi bật không khí sôi động và vui vẻ của ngày lễ hội.
“Tài tử, giai nhân dập dìu qua lại
Ngựa xe chạy như nước, áo quần tựa như nêm
Gò đống náo nhiệt kéo lên
Thoi vàng bay giữa vó rơi
Ngày tết đã đến, tài tử, giai nhân dạo chơi rộn rã. Mọi người đều háo hức mong chờ ngày xuân để cùng nhau vui chơi. Đây là phong tục thông thường. Ai cũng muốn trang hoàng cho mình lộng lẫy để tham gia hội xuân, và vì thế Nguyễn Du sử dụng cụm từ 'áo quần như nêm' để miêu tả cách trang phục được mặc.
Mọi người đi lại nhộn nhịp như nêm. Họ không chỉ quan tâm đến việc sắm sửa cho bản thân mà còn tỏ lòng thành đối với người đã khuất bằng cách rải thoi vàng và tiền giấy bay. Điều này thể hiện lòng tôn kính và tâm linh đối với tổ tiên. Nguyễn Du vẽ nên khung cảnh sôi động của lễ hội trong tiết thanh minh, với mọi người đều háo hức và thiên nhiên rạng ngời dưới bầu trời xanh.
Mọi buổi tiệc đều có lúc tan, và cảnh tan tiệc luôn làm người ta cảm thấy hụt hẫng và buồn bã. Phần cuối của đoạn trích mô tả cảnh chị em Thúy Kiều vui vẻ trở về sau một ngày xuân tươi đẹp.
Bóng chiều dần dần về phương tây
Chị em thảnh thơi đi về bên tay
Lang thang dọc theo bờ sông nhỏ
Ngắm người theo dòng cảnh bình yên
Dòng nước quanh co mềm mại
Cầu nhỏ cuối dòng ghềnh bắc ngang.
Sử dụng từ láy 'tà tà' để tạo ra bức tranh chiều tà sâu lắng. Khung cảnh này không chỉ diễn đạt niềm vui mà còn là thời điểm con người háo hức du xuân. Cuối đoạn thơ, Nguyễn Du sử dụng nhiều từ láy như 'thanh thanh', 'nao nao', 'nho nhỏ' để diễn đạt tâm trạng sâu sắc của Thúy Kiều.
Bầu trời mùa xuân phản ánh một sắc màu buồn. Điều này có thể là dấu hiệu của sự dự báo mà Nguyễn Du dành cho Thúy Kiều, một người phụ nữ đẹp và tài năng nhưng không may mắn trong cuộc sống. Màu sắc 'thanh thanh' được sử dụng để miêu tả tâm trạng buồn bã và u sầu.
'Dòng nước quanh co' cũng đầy cảm xúc, thể hiện sự kết nối giữa thiên nhiên và tâm trạng của Thúy Kiều. Trong khi lễ hội tiết thanh minh rộn ràng với sự sôi động của người qua lại, thì Thúy Kiều vẫn mang trong lòng những lo lắng và suy tư về số phận của mình.
Qua đoạn 'Cảnh ngày xuân', Nguyễn Du đã tỏ ra tài năng trong việc mô tả thiên nhiên và tâm trạng của nhân vật một cách đặc sắc. Sử dụng từ ngữ sinh động và hình ảnh tạo hình sắc nét, tác giả đã làm nổi bật hình ảnh ngày xuân sôi động và tươi mới. Điều này đã tạo ra một bức tranh sinh động về thiên nhiên và lễ hội mùa xuân, đồng thời thể hiện được nhiều tâm trạng khác nhau mà Nguyễn Du đã diễn đạt ở đầu tác phẩm Truyện Kiều.
Phân tích Cảnh ngày xuân - mẫu 7
Truyện Kiều, một kiệt tác của văn học Việt Nam, được biết đến rộng rãi. Đoạn trích Cảnh ngày xuân thường được sử dụng trong giáo trình học cấp hai và cấp ba để giới thiệu với học sinh. Đây là một phần quan trọng của tác phẩm.
Đoạn trích này ở phần đầu của tác phẩm, tập trung vào việc mô tả cảnh vật. Cảnh ngày xuân được miêu tả từ câu thơ thứ 39 đến câu thứ 56 trong Truyện Kiều. Trong bài thơ, có sự nô nức của nam thanh nữ tú đi du xuân, nhưng tâm điểm chính là chị em Thúy Kiều. Đoạn đầu tiên của trích đoạn là:
“Con én đưa thoi vào ngày xuân,
Thiều quang đã chín chục trên sáu mươi,
Cỏ non xanh mướt tận chân trời.
Cành hoa lê trắng chấm điểm một vài bông hoa
Bằng bút pháp đặc trưng của văn học cổ, Nguyễn Du đã mô tả một bức tranh mùa xuân phong phú, đa dạng với sắc màu rực rỡ. Mùa xuân mang theo những đàn én quay trở sau thời gian tránh lạnh của mùa đông. Ánh nắng xuân mang lại sự ấm áp, tươi mới để tan đi bớt bức bối của mùa đông.
Trên mặt đất, thảm cỏ non lan tỏa và được thêm điểm nhấn bởi những cành hoa lê trắng. Khung cảnh rực rỡ và lãng mạn đến độ người ta có thể tưởng tượng được. Sự hòa quyện của màu sắc từ nắng, đàn én và hoa cỏ tạo nên một bức tranh hài hòa, đẹp mắt cho cảnh vật. Thiên nhiên rực rỡ dưới ánh nắng xuân, trong một mùa xuân đang chớm nở.
Sau khi mô tả cảnh xuân, nhà thơ miêu tả tiếp cảnh lễ hội trong ngày Thanh Minh:
“Thanh Minh trong tháng Ba
Lễ tảo mộ, hội đạp thanh
Khắp nơi, mọi người nô nức đi chơi
Chị em chuẩn bị trang phục đi chơi xuân
Lang thang quanh coi trai gái xuất thân
Ngựa xe như nước, áo quần lấp lánh
Đống gò đất chồng chất lên
Thỏi vàng vụn vặt bay rơi như tiền giấy
Qua đoạn thơ này, chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy hai hoạt động chính trong lễ hội mùa xuân là tảo mộ và đạp thanh. Tảo mộ là một phong tục truyền thống của dân tộc, vào dịp Thanh Minh, mọi người đi dọn dẹp mộ của tổ tiên và người thân đã qua đời, rồi rắc thỏi vàng hoặc tiền giấy để tưởng nhớ và cầu nguyện cho họ.
Nhưng bên cạnh đó, trong không khí mùa xuân tươi vui, cũng là thời điểm của các lễ hội và các hoạt động giải trí. Nhiều thanh niên trẻ tuổi chưa lập gia đình đi chơi xuân, hy vọng tìm được tình yêu thương cho riêng mình.
Trong đoạn thơ trên, tác giả đã sử dụng nhiều từ miêu tả để tạo ra bức tranh sôi động, nhộn nhịp của ngày Thanh Minh. Trong đám đông đông đúc, có chị em, người tài tử, giai nhân cùng với những chiếc ngựa, trang phục được chuẩn bị kỹ lưỡng. Và giữa dòng người đông đúc ấy, có ba chị em Thúy Kiều mà Nguyễn Du đặc biệt chú ý và mô tả. Câu thơ “Chị em sắm sửa bộ trang điểm đi chơi xuân” chính là sự ẩn chứa cho việc họ xuất hiện trong sáu câu thơ cuối:
“Tà tà bóng ngả về phía tây
Chị em thảnh thơi dang tay ra về
Bước dần theo dòng nước nhỏ
Lần xem phong cảnh thanh bình
Những dòng nước uốn khúc quanh
Nhịp cầu nhỏ ở cuối con đường bắc ngang”
Trong bài thơ Cảnh ngày xuân, mặc dù không nhắc đến trực tiếp tên Thúy Kiều, nhưng vẫn có thể cảm nhận được cảnh đi dạo xuân của ba chị em. Cuộc gặp gỡ này mở đầu cho cuộc đời của Thúy Kiều trong phần “gặp gỡ”.
Tâm trạng của hai chị em thay đổi từ niềm vui khi đi chơi sang sự lặng lẽ khi trở về. Không còn đông người và không khí cũng trở nên yên bình hơn.
Bằng cách sử dụng ngôn từ sinh động và hình ảnh sống động, bức tranh về cảnh ngày xuân trở nên hấp dẫn và đẹp mắt.
Cuộc dạo chơi xuân của ba chị em được miêu tả trong tiết Thanh minh. Bức tranh về mùa xuân được khắc họa rất sống động và sinh động.
Nguyễn Du đã thành công trong việc diễn đạt vẻ đẹp của mùa xuân thông qua cảnh Én bay và cỏ non xanh mướt.
Với chỉ hai câu, Nguyễn Du đã thể hiện được vẻ đẹp tinh tế của mùa xuân thông qua cỏ non và hoa lê trắng.
Tám câu thơ tiếp theo tả cảnh lễ hội một cách sinh động và chân thực.
Trong tiết Thanh minh của tháng ba,
Lễ Thanh minh là dịp để tảo mộ và tham gia các hoạt động tâm linh.
Khắp nơi đều sôi động với người đi tảo mộ.
Chị em chuẩn bị trang phục mới để dạo chơi xuân.
Cảnh tài tử và mỹ nhân đi lại như nước chảy trong lễ Thanh minh.
Cảnh gò đống chất đầy người kéo lên tảo mộ cũng là điều không thể thiếu trong ngày này.
Mọi người bận rộn kéo gò đống lên tảo mộ.
Trong tiết Thanh minh của tháng ba, trời quang đãng và khí trời mát mẻ, làm cho cỏ cây, hoa lá trở nên tươi tốt.
Trong ngày Thanh minh, mọi người đi tảo mộ để tưởng nhớ và biểu dương lòng biết ơn đối với người đã khuất.
Lễ hội mùa xuân đầy rằng rịt, với nam thanh, nữ tú, tài tử, và giai nhân từ khắp nơi đổ về, tạo nên cảnh vật nhộn nhịp, tấp nập.
Quanh các ngôi mộ, người ta rắc vàng thoi, bạc giấy, bày cỗ và thắp nến, đốt nhang khấn vái, tạo ra không khí trang trọng và thiêng liêng.
Bước chân của chị em Thuý Kiều về phía tây, đan tay nhau thả bước dưới bóng tà dần nhấp nhô trên tiểu khê.
Hình ảnh chị em Thúy Kiều bước đi thong thả, đan tay nhau, dần dần biến mất trong bóng tà.
Dọc theo con đường nhỏ, chân bước nhẹ nhàng theo dòng nước nhỏ, chị em Kiều tiến về phía tây.
Lần nhìn ngắm phong cảnh, cỏ xanh mướt trải dài mênh mang.
Dòng nước uốn quanh như một dải lụa xanh mát.
Góc cầu nhỏ nhoi cuối con đường uốn quanh dọc bên sườn đồi.
Khung cảnh chiều xuân vẫn đọng lại vẻ thanh tú, êm đềm: ánh nắng nhạt, dòng suối trong veo, và một chiếc cầu nhỏ nằm bắc ngang ở cuối con suối.
Môi trường yên bình dần trở nên im lặng. Sự nhộn nhịp, sôi động của lễ hội dường như đã tan biến. Từ những từ như tà tà, thơ thẩn, thanh thanh, nao nao không chỉ mô tả cảnh vật mà còn thể hiện tâm trạng của con người.
Dòng nước uốn quanh đã dẫn Kiều đến nơi nấm mồ hoang lạnh của Đạm Tiên và sau đó, cô sẽ gặp gỡ chàng thư sinh Kim Trọng với vẻ ngoài tài tử.
Nguyễn Du đã kết hợp một cách khéo léo giữa việc kể chuyện và miêu tả cảnh vật, sử dụng ngôn từ phong phú để tái hiện cảnh ngày xuân một cách sống động. Phong cách tả cảnh ngụ tình của ông cũng phản ánh được tâm trạng của nhân vật mà ông muốn thể hiện.
Phân tích Cảnh ngày xuân - mẫu 8
Khi nhắc đến Nguyễn Du và tác phẩm Truyện Kiều, không thể không nhớ đến sức sáng tạo của nhà thơ trong việc miêu tả cảnh ngày xuân.
Trong đoạn trích này, Nguyễn Du mô tả một bức tranh thiên nhiên cảnh xuân một cách sống động:
'Ngày xuân con én đưa thoi
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi'
Bằng những từ ngữ tinh tế, Nguyễn Du đã khắc họa được vẻ đẹp của mùa xuân, với ánh sáng rực rỡ và cảm xúc tràn đầy.
Thiều quang thể hiện ánh sáng ấm áp của mùa xuân, đem lại cảm giác êm đềm và ấm áp cho con người.
'Cỏ non xanh bao la tận chân trời
Cành lê trắng tinh khôi điểm một vài bông hoa'
Mùa xuân, mùa đầu tiên trong năm, mang lại hy vọng cho một năm mới thịnh vượng và thành công. Cây cỏ xanh tươi, đầy sức sống, hoa lá rực rỡ khoe sắc. Bức tranh thiên nhiên nay đẹp ngút ngàn màu xanh, một màu xanh của sự sống mở rộng đến tận chân trời.
Trên nền bức tranh tuyệt vời đó, nhấn nhá một vài bông hoa lê trắng, thể hiện sự tinh tế của nhà thơ trong miêu tả. Qua bốn câu thơ đầu, Nguyễn Du đã mở ra một thế giới thiên nhiên tươi đẹp, kết hợp với cảm xúc sâu lắng của con người khi đối diện với vẻ đẹp của mùa xuân.
'Trong tiết thanh minh của tháng ba
Lễ là để tảo mộ, hội là để đạp thanh'
Trong ngày thanh minh đầu tiên của tháng ba, mọi người tụ họp để đi tảo mộ và thắp hương cho người đã khuất. Điều này thể hiện sự trân trọng và ghi nhớ của dân tộc đối với tổ tiên. Cùng với việc tảo mộ, ngày hội mùa xuân cũng là dịp để mọi người vui chơi, tận hưởng không khí rộn ràng của mùa xuân.
'Hào hứng khắp nơi, mọi người đi chơi hội'
Bạn bè cùng nhau chuẩn bị để đi vui chơi xuân
Thượng lưu và phụ nữ xinh đẹp
Phong cảnh nhộn nhịp, đồng thời phức tạp như nước, áo quần như nêm
Trong bốn câu thơ này, nhà thơ tạo ra một bức tranh sôi động, rực rỡ của lễ hội. Mọi người đều hào hứng và tưng bừng như chim yến bay, chim oanh hót, tất cả như hòa vào một không khí sôi động. Việc chuẩn bị và tưng bừng tham gia các hoạt động vui tươi như sắm sửa, dập dìu thể hiện tinh thần hăng hái của con người trong ngày hội.
Khung cảnh đông đúc đến mức nhà thơ so sánh ngựa xe như nước, áo quần như nêm. Các thanh niên, thiếu nữ trẻ tuổi giống như chị em Thúy Kiều, Thúy Vân là tâm điểm của lễ hội. Họ tay trong tay, tươi vui và háo hức trước vẻ đẹp của mùa xuân, thể hiện sự sôi động và hy vọng trước cuộc sống mới.
'Khắp nơi đều nhộn nhịp, đám đông kéo lên'
'Tiền giấy bay, thoi vàng vụn rơi'
Họ đốt giấy vàng để cúng dường cho người đã khuất, hi vọng họ sẽ có cuộc sống hạnh phúc ở thế giới bên kia. Hai câu thơ cuối làm ngợp lên tâm trạng của chị em Thúy Kiều khi lễ hội kết thúc:
'Bóng hoàng hôn ngả về phương tây
Chị em dạo bước thong thả về nhà'
Mọi cuộc vui đều phải kết thúc, khi đó mọi người phải trở về với cuộc sống hàng ngày của họ. Chị em Thúy Kiều cũng vậy, khi hoàng hôn buông xuống, bóng tối phủ kín, họ phải trở về nhà. Mặc dù bức tranh hoàng hôn được miêu tả rất đẹp nhưng cũng mang theo nỗi buồn của sự chấm dứt. Hình ảnh chị em Kiều dạo bước về nhà thể hiện sự nuối tiếc, buồn bã khi chứng kiến sự kết thúc của lễ hội mùa xuân. Đặc biệt, trong tâm trạng đa cảm của Kiều, bức tranh hoàng hôn kết thúc càng trở nên buồn bã hơn:
'Bước dần theo con đường nhỏ xuyên qua cánh đồng xanh biếc
Mỗi bước dạo chân, ngắm cảnh thiên nhiên bao la, thanh thanh
'Dòng nước uốn quanh như muốn nói lên điều gì'
'Ở cuối con suối nhỏ có một cầu nho nhỏ'
Những vật thể dần trở nên nhỏ bé hơn, không gian thu hẹp cũng là dấu hiệu của việc bức tranh thiên nhiên mùa xuân đang kết thúc. Ba câu cuối cùng của đoạn trích sử dụng từ ngữ 'thanh thanh', 'nao nao', 'nhỏ nhỏ', tạo ra một bức tranh tự nhiên trầm lắng, không còn sự sống động như ở đầu bài thơ.
Điều này cũng phản ánh tâm trạng của Thúy Kiều, sau niềm vui, nàng không biết điều gì đang chờ đợi phía trước. Bốn câu thơ cũng như dự cảm không được tốt lành của Kiều về cuộc sống sau này, có lẽ 'dịp cầu nho nhỏ' bắc ngang có thể là dấu hiệu của cuộc đời Kiều sẽ rẽ sang một hướng khác? Qua đó, ta thấy được tài năng miêu tả cũng như khắc họa tâm trạng của nhân vật thông qua cảnh thiên nhiên của Nguyễn Du.
Đoạn trích Cảnh ngày xuân - mẫu 9 ngắn gọn nhưng rất đầy đủ, vừa mô tả cảnh vật vừa tả tâm trạng nhân vật một cách khéo léo. Đây là một bức tranh thiên nhiên tươi đẹp, gợi mở sự tò mò của người đọc về cuộc sống tiếp theo của Thúy Kiều.
Phân tích Cảnh ngày xuân - mẫu 9
Nguyễn Du không chỉ là một nhà văn xuất sắc trong việc miêu tả con người mà còn là một người nghệ sĩ vĩ đại trong việc miêu tả thiên nhiên. Dưới bàn tay của ông, bức tranh nào cũng trở nên sống động, gửi gắm cảm xúc của nhân vật. Cảnh ngày xuân cũng không phải là ngoại lệ, nó không chỉ đẹp mắt, hài hòa về màu sắc mà còn thể hiện sự đa dạng của tình cảm của chị em Thúy Kiều.
Câu thơ mở đầu mô tả khung cảnh mùa xuân tuyệt vời:
Con én đưa thoi trong ngày xuân
Thiều quang chín chục, đã ngoài sáu mươi.
Những cánh én bay chao đảo trên bầu trời như những chiếc thoi, Nguyễn Du đã chọn hình ảnh rất đặc sắc, tiêu biểu. Lúc này, mùa xuân đã đến cuối tháng ba, đỉnh cao, rực rỡ, đẹp nhất. Đó là không gian đầy ánh sáng, lấp lánh, tràn đầy huy hoàng.
Tuy vui mừng nhưng chị em Thúy Kiều cũng cảm thấy nuối tiếc về sự chóng vánh của thời gian mùa xuân. Hai câu thơ tiếp theo không chỉ thông báo mùa xuân đã 'ngoài sáu mươi' mà còn tôn vinh vẻ đẹp của nó.
Cỏ non xanh trải dài đến chân trời
Cành lê trắng tinh tế như vài bông hoa
Bức tranh rực rỡ màu xanh tươi non của cỏ, mở ra một không gian tràn đầy sức sống, kéo dài đến tận chân trời, thể hiện mạnh mẽ nét sinh động của mùa xuân. Nguyễn Du kết thúc bức tranh đó bằng việc 'điểm' một vài bông hoa lê, tạo điểm nhấn cho sự tươi mới của mùa xuân.
Hoa lê trắng tinh khôi không chỉ tạo ra hình ảnh đẹp mắt mà còn gợi lên hương thơm dịu dàng, tinh khiết. Bằng cách sử dụng động từ 'điểm', Nguyễn Du đã làm cho bức tranh trở nên sống động, đầy sức sống.
Bức tranh đẹp là sự hòa quyện tinh tế giữa màu xanh và trắng, tạo ra không gian tươi mới và trong lành. Thơ 'Thanh minh trong tiết tháng ba/ Lễ là tảo mộ, hội là đạp thanh' vinh danh truyền thống tốt đẹp của dân tộc, thể hiện lòng biết ơn và tôn trọng người đã khuất.
Nguyễn Du cũng tóm tắt về văn hóa du xuân và không khí vui vẻ, náo nhiệt của lễ hội mùa xuân. Việc sử dụng từ ngữ như 'nô nức' và 'dập dìu' làm nổi bật tâm trạng sôi động của mọi người trong dịp này.
Ẩn dụ 'nô nức yến anh' tạo ra hình ảnh nhộn nhịp của đoàn người đi du xuân, cũng như gợi lên không khí sôi động và sự háo hức của những đôi uyên ương trong cuộc gặp gỡ đầu tiên.
Không chỉ rộn ràng mà không gian còn đông đúc với hình ảnh 'Ngựa xe như nước, áo quần như nêm'. Qua đó, Nguyễn Du đã thành công trong việc diễn đạt văn hóa và tạo ra không gian cho cuộc gặp gỡ định mệnh giữa Kiều và Kim.
Bức tranh mùa xuân tươi vui, sôi động và tràn ngập sinh khí được thể hiện một cách sinh động và tinh tế qua ngòi bút của Nguyễn Du.
Trời đã bắt đầu buông tà, lễ hội cũng dần kết thúc, chị em Thúy Kiều buồn bã rời khỏi, không gian trở nên hiu quạnh, đầy nỗi buồn trong lòng, đặc biệt là trong tâm hồn đa sầu, đa cảm của cô Kiều:
Bước dần theo dòng suối nhỏ
Ngắm phong cảnh thanh bình
Nước trong suối uốn quanh
Dạo bước cuối con đường nhỏ bên bờ sông
Hình ảnh của 'dòng suối nhỏ' và 'con đường nhỏ' tái hiện một không gian nhỏ bé, sâu thẳm, phản ánh nỗi buồn tiếc nuối khi ngày đã kết thúc. Bằng cách sử dụng các từ láy 'thanh bình', 'nước trong suối uốn quanh', tác giả thể hiện cảm xúc sâu lắng và tinh tế trong tâm trạng của nhân vật.
Đặc biệt, từ 'uốn quanh' không chỉ mô tả dòng nước mà còn thể hiện tâm trạng xao lòng, bồi hồi, đầy cảm xúc của nhân vật. Tất cả các từ này làm cho bức tranh cảnh tượng trở nên phong phú về tâm trạng, với sự xao lòng, nuối tiếc và nỗi buồn nhẹ nhàng. Qua việc miêu tả cảnh vật, Nguyễn Du đã thành công trong việc diễn đạt tâm hồn nhạy cảm và trong sáng của các nhân vật.
Để tạo thành công cho bức tranh mùa xuân, Nguyễn Du đã khéo léo sử dụng bút pháp tả cảnh và tả cảm xúc: không chỉ miêu tả vẻ đẹp của mùa xuân và không khí sôi động của lễ hội mà còn thể hiện sâu sắc những cảm xúc của nhân vật. Ngôn ngữ thơ phong phú, đa dạng: sử dụng các từ láy và từ ghép để tạo hình và biểu cảm. Nhịp thơ linh hoạt biểu hiện được tâm trạng của nhân vật.
Trích đoạn Cảnh ngày xuân cho thấy tài nghệ thuật của Nguyễn Du. Bằng những nét bút tinh tế, ông đã tái hiện trước mắt người đọc bức tranh thiên nhiên và lễ hội mùa xuân rực rỡ, vui tươi. Đồng thời, nó cũng thể hiện tầm hồn nhạy cảm, tinh tế của các nhân vật, đặc biệt là Thúy Kiều.
Phân tích Cảnh ngày xuân - mẫu 10
Trong văn học Việt Nam, 'Truyện Kiều' của Nguyễn Du là một tác phẩm đầy cảm xúc về thế mạnh và khổ đau của phụ nữ trong xã hội phong kiến. Điều này được thể hiện qua số phận đầy bi kịch của Thúy Kiều. Trước khi rơi vào cảnh khốn khó, nàng đã trải qua cuộc sống êm đềm, hạnh phúc bên gia đình.
Trích đoạn 'Cảnh ngày xuân' ở đầu 'Truyện Kiều' miêu tả chị em Kiều đi chơi xuân trong ngày Thanh minh. Thiên nhiên là nguồn cảm hứng không thể thiếu cho các nghệ sĩ, và mỗi nhà thơ lại có cách miêu tả riêng. Đối với Nguyễn Du, bức tranh thiên nhiên cảnh ngày xuân gắn liền với không khí của lễ hội. Tác giả đã tái hiện không gian và thời gian một cách sinh động:
Mùa xuân, chim én chao đưa thoi
Thiên nhiên nở rộ, thời gian trôi qua nhanh chóng
Thời tiết hiện tại đã bước vào tháng ba, những chú én bay lượn trên bầu trời không chỉ là hình ảnh thực tế của mùa xuân mà còn biểu hiện sự trôi chảy không ngừng của thời gian: 'Thời gian thấm thoắt thoi đưa'. Thời gian vẫn tiếp tục trôi đi âm thầm nhưng vội vã, chỉ trong một thoáng đã đến tháng ba của mùa xuân - khi những tia nắng xuân lấp lánh, tươi đẹp rọi sáng cảnh vật. Trong không gian đó, hai gam màu xanh và trắng hiện lên:
'Cỏ non xanh trải dài đến chân trời
Cành lê trắng tinh khôi thấm một vài bông hoa'
Không gian rộng lớn đầy sức sống và sắc xuân đã được tài tình phác họa qua màu xanh tươi mơn mởn của cỏ non. Tác giả còn khéo léo sử dụng bút pháp chấm phá để điểm xuyết sắc trắng một vài bông hoa lê, tạo nên sự hòa quện giữa màu xanh và trắng, tạo ra một cảnh ngày xuân thanh khiết và nhẹ nhàng. Chỉ với bốn câu thơ, nhà thơ đã thành công trong việc mô tả 'cảnh ngày xuân' tràn đầy sức sống và vẫn giữ được vẻ trang nhã, tinh khôi, và trong trẻo làm say mê lòng người.
Trong tám câu thơ tiếp theo của đoạn trích, Nguyễn Du đã mô tả không khí lễ hội trong dịp Thanh minh. Thời gian lễ được xác định thông qua hai phần chính 'trong tiết tháng ba' với hai sự kiện: 'Lễ là tảo mộ, hội là đạp thanh'. Không khí lễ hội được thể hiện rõ ràng với sự tấp nập và đầy đủ:
'Gần xa đều rộn ràng yến bạn
Chị em sẵn sàng đi du xuân rồi
Náo nức những tài tử, những giai nhân
Đám ngựa như dòng nước, áo quần như cánh nêm
Không gian lễ hội sôi động với sự tham gia của 'yến anh', 'chị em', 'tài tử', 'giai nhân' cùng những hoạt động phong phú, đa dạng như 'sắm sửa', 'náo nhiệt' đã tạo nên bức tranh sinh động cùng tâm trạng phấn khích của con người. Tác giả Nguyễn Du đã khéo léo sử dụng các biện pháp tu từ phong phú, linh hoạt.
Điều này được biểu hiện qua 'náo nức yến anh' - hình ảnh đoàn người hoặc đôi uyên ương sánh bước cùng nhau. Đồng thời, tác giả sử dụng phép so sánh 'Ngựa xe như dòng nước, áo quần như cánh nêm' để miêu tả sự đông đúc và phấn khích của dòng người đi trẩy hội. Bên cạnh đó, ông miêu tả không gian yên bình của phần 'lễ':
'Ngổn ngang gò đống kéo lên
Thoi vàng vó rắc tro tiền giấy bay'
Sự linh thiêng làm thời gian như chầm lại và trầm xuống. Hành động tưởng nhớ đến những người đã khuất đã thành công trong việc gợi lên lòng biết ơn về quá khứ và truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Cuối cùng, tác giả Nguyễn Du mô tả cảnh hai chị em Thúy Kiều trở về khi lễ hội tan.
'Tà tà bóng nghiêng về phía tây
Đôi tay thơ thẩn vẫy về xa
Bước chậm theo dòng nước khe khê
Mắt nhìn phong cảnh hòa mình thanh thản
Gió lay dòng nước mềm mại quấn quanh
Cầu nhỏ nhưng dáng vẻ thanh thoát bắc ngang'
Tràng lệ hội chợ tan, khi ánh hoàng hôn chiếu rọi cả bầu trời phía tây. Phong cảnh trước mắt vẫn là bức tranh mùa xuân quen thuộc, với những tia nắng phai, dòng nước nhỏ bên chiếc cầu chắc chắn bắc ngang. Thời gian dường như trôi chậm lại, khiến mọi sự trở nên êm đềm, lặng lẽ, như cách mặt trời dần buông xuống phía tây, con người trở về trong bóng chiều dần nhạt, và dòng nước uốn quanh chầm chậm.
Tác giả Nguyễn Du đã sử dụng nhiều từ như 'tà tà', 'thanh thản', 'nhỏ nhắn', 'nao nao' để mô tả cảnh vật, đồng thời cũng là cách sử dụng tinh tế bút pháp 'tả cảnh ngụ tình', khiến cho cảnh vật trở nên tĩnh lặng, lạc lõng nhưng cũng chứa đựng nỗi buồn, lòng nhớ nhung của con người, đặc biệt là hình ảnh 'dòng nước uốn quanh' trong sự 'nao nao'. Cảnh vật trong đoạn thơ vì thế cũng mang theo một nỗi buồn, một tâm trạng của con người.
Trong trích đoạn 'Cảnh ngày xuân', tác giả Nguyễn Du đã thành công trong việc mô tả bức tranh thiên nhiên mùa xuân tươi đẹp, đầy sức sống và không gian của lễ hội sôi động, đông vui, thể hiện rõ bản sắc văn hóa dân tộc. Điều này được thể hiện qua việc kết hợp tự nhiên giữa các kỹ thuật văn học trung đại như chấm phá, tả cảnh ngụ tình,...