Tổng hợp hơn 30 bài văn Cảm nhận của em về 8 câu thơ giữa trong đoạn trích Kiều tại lầu Ngưng Bích, được chọn lọc kỹ càng và chi tiết, giúp học sinh có thêm tài liệu tham khảo để viết văn hay hơn.
Tổng hợp 30 ý kiến về 8 câu thơ ở phần trung tâm của truyện Kiều tại lầu Ngưng Bích (hay, ngắn gọn)
Cảm nhận của em về 8 câu thơ giữa trong đoạn trích Kiều tại lầu Ngưng Bích - mẫu 1
Nguyễn Du được coi là một văn hào dân tộc lẫn danh nhân văn hóa thế giới, và tên tuổi của ông thường được liên kết với tác phẩm 'Truyện Kiều' - một trong những kiệt tác văn học hàng đầu của Việt Nam, không chỉ về mặt nội dung sâu sắc mà còn thành công về mặt nghệ thuật. Ông đã sử dụng bút pháp tinh tế để mô tả con người, cảnh vật, và nội tâm nhân vật. Phần trích 'Kiều ở lầu Ngưng Bích' với tám câu thơ đã diễn tả một cách xúc động nỗi nhớ thương của Thúy Kiều đối với người yêu và bố mẹ, thông qua lời thoại nội tâm của nhân vật.
Sau khi biết mình bị lừa vào lầu Ngưng Bích, Kiều cảm thấy uất ức và suy tư đến việc tự tử. Tú Bà, sợ mất vốn và lời, đã hứa sẽ gả Kiều đi khi nàng bình phục và sau đó giữ nàng trong lầu, thực chất là một hình phạt. Kiều, một mình trong nơi xa lạ, cảm thấy cô đơn và buồn bã. Môi trường xung quanh là một không gian bao la với những cát bụi mịt mù bay lượn, và thời gian dường như bị giam cầm, làm nàng cảm thấy cô đơn, đau khổ, và tuyệt vọng. Đầu tiên, Kiều nhớ đến Kim Trọng.
“Tưởng người dưới ánh trăng chung chén
Tin sương lan tỏa như những sợi tơ của mai đợi chờ
Từ 'chén đồng' ở đây mang ý nghĩa của sự đồng lòng, đồng ý. Khi nhớ về Kim Trọng, Kiều luôn nhớ đến lời thề với người yêu. 'Chén đồng' ẩn chứa trong đó là nghĩa vụ và tình cảm của hai người đã được củng cố dưới ánh trăng tỏa sáng:
'Vầng trăng chiếu sáng giữa bầu trời
Hai trái tim, một ý niệm song hành'
Vầng trăng vẫn sáng rực, chén rượu thề chưa khô, nhưng số phận đã đoạn tuyệt. Câu thơ như nhịp đập của trái tim yêu thương vẫn còn đang rỉ máu.
Khi nhớ về Kim Trọng, Kiều cảm thấy đau lòng, tưởng tượng về cảnh tại Liêu Dương xa xôi và cách xa. Kim Trọng không biết rằng Kiều đã hy sinh mình để chuộc cha, vẫn hy vọng vào thông điệp từ Kiều mà không có kết quả. Mỗi khi nhớ về Kim Trọng, Kiều lại cảm thấy nỗi đau bao trùm lấy mình:
“Ở góc trời xa bờ biển cô đơn
Tấm son màu gột rửa, mãi không phai đi
Kiều thương nhớ một mình, trên trời, góc bể, đặc biệt nuối tiếc cho tình yêu đầu tiên. Câu thơ 'Tấm son gột rửa bao giờ cho phai' có thể hiểu là tấm lòng của Kiều vẫn trung thành và không bao giờ phai màu dành cho Kim Trọng. Trong cảnh cô đơn, Kiều nhớ đến Kim Trọng và cho lòng mình yên bình. Đó là sự tha thứ và trung thành của một người.
Nỗi nhớ về người yêu không dứt, trái tim Kiều càng chất chồng với nỗi nhớ cha mẹ, khiến nàng nhớ đến Kim Trọng là nhớ đến cha mẹ nàng với sự thương xót.
“Xót người như đợi ngày mai,
Ai đủ dũng cảm để vượt qua những thời gian khó khăn?
Sân Lai cách xa bao nhiêu ngày nắng mưa,
Có khi cây tử đã ôm chặt người kia'
Kiều cảm thấy đau lòng khi cha mẹ đã già yếu, nhưng vẫn mỗi ngày dõi theo cửa để mong tin tức về con. Nàng cảm thấy tiếc nuối vì không thể chăm sóc cha mẹ mình, và không biết ai sẽ là người chăm sóc cho họ. Cụm từ 'Quạt nồng ấp lạnh' và từ 'sân lai', 'gốc tử' đều thể hiện tình cảm nhớ thương của Kiều đối với cha mẹ.
Khi nhớ đến cha mẹ, Kiều cảm thấy lo lắng về sự thay đổi của quê nhà. Nỗi lo lắng lớn nhất của nàng là 'Có khi gốc tử đã vừa người ôm', có nghĩa là cha mẹ ngày càng già yếu và nàng không thể chăm sóc được. Cụm từ 'cách mấy nắng mưa' diễn tả thời gian xa cách và sự tàn phá của thời tiết đối với con người và thiên nhiên, khiến Kiều nhớ đến công ơn của cha mẹ và hối hận vì đã phụ bạc công ơn cha mẹ. Nỗi nhớ của nàng trải dài qua thời gian và không gian, càng trở nên sâu sắc. Điều này giải thích tại sao Kiều luôn nhớ Kim Trọng trước cha mẹ, vì nàng đã thấy lòng hiếu thảo của mình đã được đền đáp khi bán mình để chuộc cha mẹ. Với Kim Trọng, trước khi rời bỏ, chàng đã trao hy vọng vào Kiều.
'Giữ vàng giữ ngọc cho đúng
Cho lòng kẻ bất hạnh hòa hợp với trời'
Bây giờ, tâm hồn của Kiều đã bị tổn thương, nàng hối hận vì đã phụ bạc Kim Trọng, và luôn cảm thấy tiếc nuối như một người phụ tình. Nỗi đau ấy luôn xé nát trái tim nàng, khiến nàng luôn nhớ về Kim Trọng, nhớ người yêu trước cả cha mẹ, điều đó phản ánh tâm lý của Kiều. Qua cách miêu tả của Nguyễn Du, ta thấy được lòng trung thành và yêu thương của Kiều. Nàng là người đầy lòng nhân từ và biết ơn, là người con hiếu thảo, đáng quý biết bao.
Tóm lại, thông qua ngôn ngữ nội tâm và từ ngữ hình ảnh tinh tế, Nguyễn Du đã thành công trong việc diễn đạt nỗi nhớ và thương nhớ của Kiều đối với cha mẹ và người yêu trong đoạn trích 'Kiều ở lầu Ngưng Bích'. Điều này cho thấy, Kiều không chỉ là một người phụ nữ tài sắc vẹn toàn mà còn là người có lòng trung thành và hiếu thảo. Đồng thời, đoạn thơ cũng tôn vinh vẻ đẹp của phẩm chất con người, đặc biệt là của phụ nữ trong xã hội xưa.
Dàn ý Cảm nhận của em về 8 câu thơ giữa trong đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích
I. Khởi đầu: Giới thiệu về tác giả và tác phẩm
+ Nguyễn Du được biết đến là một danh hào của dân tộc, ông để lại nhiều tác phẩm lớn gây tiếng vang
+ 'Truyện Kiều' được coi là một kiệt tác của Nguyễn Du.
+ Đoạn trích 'Kiều ở lầu Ngưng Bích' là một phần nổi bật đã thể hiện rõ tâm trạng của nhân vật chính Thúy Kiều.
- Giới thiệu về 8 câu thơ giữa: Cảm xúc nhớ nhung của Kiều khi đứng trước lầu Ngưng Bích
II. Phần chính
* Tổng quan về Thúy Kiều và hành trình dẫn đến tình hình hiện tại của cô
* Tóm tắt về đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích”: Sau khi phát hiện bị lừa vào lầu xanh, Kiều quyết định tự vẫn do tức giận. Tú bà sợ mất tiền nên hứa sẽ gả Kiều khi nàng bình phục, nhưng lại đưa nàng ra lầu Ngưng Bích, thực chất là giam giữ nàng. Kiều sống một mình ở đất xa quê hương, cảm thấy cô đơn và buồn rầu.
* Tóm tắt nội dung của tám câu thơ: Là biểu hiện của nỗi nhớ thương của Kiều về người yêu và cha mẹ
* Nỗi nhớ về người yêu:
“Tưởng người dưới nguyệt chén đồng
Tin sương luống những rày trông mai chờ
Bên trời góc bể bơ vơ
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai”
=> Nỗi nhớ về người yêu sâu sắc.
=> Thúy Kiều cảm thấy ê chề, bẽ bàng, và tủi nhục khi nhớ về Kim Trọng - người yêu đầu lòng của mình.
* Nỗi nhớ về cha mẹ
“Xót người tựa cửa hôm mai
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ
Sân Lai cách mấy nắng mưa
Có khi gốc tử đã vừa người ôm”
=> Kiều là một người hiếu thảo.
* Kiều nhớ về người yêu trước khi nhớ đến cha mẹ
- Khi đặt chung giữa hai chữ tình và hiếu, Kiều đã tạm yên với chữ hiếu bởi khi bán mình chuộc cha, Kiều đã phần nào đền đáp được công ơn sinh thành. Còn với Kim Trọng, trước khi về Liêu Dương chịu tang chú, chàng đã kỳ vọng rất nhiều vào Kiều. Nhưng giờ đây, tấm thân của Kiều đã hoen ố, nên nàng càng ân hận và day dứt hơn.
- Điều này hoàn toàn phù hợp với quy luật tâm lí.
=> Thể hiện sự tinh tế trong cách miêu tả tâm lý của Nguyễn Du.
* Nghệ thuật:
- Sử dụng ngôn ngữ độc thoại nội tâm.
- Sử dụng hình ảnh và từ ngữ tinh tế.
III. Kết bài: Tổng kết nội dung và cảm nhận của tôi.
Cảm nhận về 8 câu thơ giữa trong đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích - mẫu 2
Trong bài thơ 'Kiều ở lầu Ngưng Bích', tám câu thơ giữa đã thể hiện tâm trạng nhớ nhung Kim Trọng và gia đình cùng hoàn cảnh tội nghiệp đáng thương của Kiều ở nơi đất khách quê người. Hai câu thơ 'Tưởng người dưới nguyệt chén đồng/Tin sương luống những rày trông mai chờ' tái hiện kỷ niệm đôi lứa từng được cùng Kim Trọng uống rượu dưới ánh trăng vằng vặc. Đó là nỗi nhớ tình đầu đậm sâu của mình. Nhớ về chàng Kim, Kiều nhớ về chén rượu thề nguyền đính ước, minh chứng tình yêu đẹp đẽ của họ dưới ánh trăng. Dù cho Kiều đã trao duyên cho em mình nhưng có lẽ nàng Kiều vẫn chưa thể quên đi tình yêu của mình. Nàng còn lo sợ cho chàng Kim chờ mong tin tức của mình trong vô ích. Càng thương nhớ chàng Kim bao nhiêu thì hai câu thơ tiếp theo thể hiện sự xót thương của Kiều cho chính số phận, cuộc đời của mình 'Bên trời góc bể bơ vơ/Tấm son gột rửa bao giờ cho phai'. Kiều không chỉ thương cho số phận ba chìm bảy nổi bơ vơ tột cùng của mình mà còn thương cho sự trong trắng, trinh bạch của đời mình đã bị phá hủy, không thể gột sạch được. Hình ảnh 'tấm son' là hình ảnh ẩn dụ của tấm lòng trinh bạch của Kiều, nay đã chẳng thể trở về sự trong trắng nguyên vẹn, ấm êm ngày xưa. Cuối cùng, 4 câu thơ còn lại đó chính là nỗi nhớ thương của Kiều dành cho bố mẹ của mình:
'Xót người tựa cửa hôm mai
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ'
Trong trích Kiều ở lầu Ngưng Bích, ta cảm nhận được tâm trạng cô đơn và lòng trung thành của Thuý Kiều. Điều này rõ ràng trong tám câu thơ giữa đoạn trích.
Nỗi nhớ của Kiều được tác giả diễn tả qua hai khía cạnh chính: nhớ người yêu và quan tâm đến cha mẹ già. Tình huống này xảy ra sau sự cố nghiêm trọng của gia đình Kiều. Sau khi cha và em gái Kiều bị bắt vì một vu oan, Kiều đành phải bán mình để chuộc cha. Dù hy vọng vào sự nhân từ của một gia đình, nhưng thực tế lại khiến Kiều rơi vào tay những người xấu xa. Nàng cảm thấy bất mãn và muốn tự tử. Tú Bà, chủ của một quán lầu, lừa Kiều bằng việc hứa sẽ giúp nàng kết hôn, nhưng thực ra chỉ là để bán Kiều làm nô lệ tình dục. Kiều bị giam giữ tại lầu Ngưng Bích và bắt buộc phải phục vụ những người khách.
Nguyễn Du sống trong một thời đại đầy biến động. Cuối thế kỷ XVIII và đầu thế kỷ XIX, lịch sử Việt Nam chứng kiến nhiều biến cố khủng khiếp. Cuộc sống của người dân vô cùng khốn khổ, đặc biệt là phụ nữ. Truyện Kiều của Nguyễn Du đã phản ánh chân thực tình hình đó, lên án sự bất công trong xã hội và bênh vực phụ nữ.
Những dòng thơ tưởng chừng như vô vị nhưng chứa đựng nhiều cảm xúc sâu sắc. Đó là hình ảnh của bố mẹ trong tâm trí Kiều, hình ảnh quạt mát vào mùa hè và chăn ấm vào mùa đông. Cảm xúc của Kiều về sự cô đơn và lo lắng cho bố mẹ không thể nào diễn tả hết bằng lời.
Trong bối cảnh khó khăn, Kiều nhớ về người yêu và gia đình. Nguyễn Du đúng khi để Kiều nhớ đến Kim Trọng trước, sau đó mới đến cha mẹ. Điều này phản ánh đúng bản chất tâm lý của con người. Kiều đã hy sinh tình yêu vì trách nhiệm hiếu thảo. Nàng bán mình để giải thoát cho cha mẹ, thể hiện lòng hiếu kính sâu sắc. Nàng đã trả ơn cha mẹ với lòng biết ơn sâu đậm. Tuy nhiên, với Kim Trọng, Kiều không thể thực hiện lời hứa của mình:
Nghĩ rằng người dưới ánh trăng
Mơ mộng trong sương chờ bình minh.
Bên trời đất hờ hững mình
Để tấm lòng rửa mờ dần theo thời gian.
Bố mẹ luôn hiện hữu trong tâm trí Kiều, như hình ảnh của họ trong lời thơ và những suy nghĩ về việc lo lắng cho họ. Tình cảm của Kiều dành cho bố mẹ không thể nào diễn tả hết bằng lời. Cảnh quạt mát vào mùa hè và chăn ấm vào mùa đông càng làm nổi bật sự lo lắng và đau đớn trong tâm trí của Kiều.
Động từ tưởng thể hiện được nỗi nhớ buổi thề nguyền đính ước giữa chàng và nàng. Thúy Kiều tưởng tượng Kim Trọng đang nhớ về mình trong vô vọng. Kiều nhớ về đêm trăng tình tự của Kim – Kiều với lời thề thủy chung, son sắt. Nàng hình dung cảnh Kim Trọng đang ngày đêm thương nhớ mình, khắc khoải chờ tin nàng. Bao nhiêu nhớ thương, bao nhiêu đau đớn kết lại trong câu thơ.
Có người nói rằng ở đây còn có cả nỗi tủi hổ của Kiều khi “tấm son” đã bị cuộc đời làm cho nhơ nhuốc không sao gột rửa được. Vẫn biết Kiều là người luôn có ý thức về bản thân, về nhân cách, về phẩm giá của mình. Cho nên, khi được mời ra cho Mã Giám Sinh xem mặt, nàng mới có cái cảm giác “trông gương mặt dày”.
Nhưng trong câu thơ này, hiểu như thế e là chưa đúng,bởi từ “gột rửa” mà Nguyễn Du dùng thường thì nghĩa của từ này là kì cọ, làm cho sạch những vết bẩn dây vào, nhưng ở đây nhà thơ đã không dùng từ này với nghĩa đó. Dưới hình thức của một câu hỏi, ông để cho Kiều tự khẳng định sự thủy chung của mình, tấm lòng son – tình cảm thủy chung son sắt với chàng Kim làm sao có thể gột rửa được đây.
Chính từ “gột rửa” đã khẳng định một cách chắc chắn, đinh ninh về tình cảm thủy chung của Kiều dành cho Kim Trọng. Hơn nữa, tới giờ phút Kiều bị đưa ra lầu Ngưng Bích, nàng chưa làm gì phải tủi hổ với chàng Kim. Khi bị đưa ra lầu xanh, nàng đã quyết lấy cái chết để bảo toàn danh tiết. Kiều đã rất đau đớn, xót xa khi nghĩ về Kim Trọng, nhưng chắc nàng không có gì phải hổ thẹn với lòng mình lúc này.
Tiếp theo là Kiều nhớ đến cha mẹ, nàng đã làm tròn đạo hiếu, nhưng không vì thế mà nỗi nhớ cha mẹ kém phần day dứt:
Xót người tựa cửa hôm mai
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ?
Sân Lai cách mấy nắng mưa
Có khi gốc tử đã vừa người ôm.
Khi viết về nỗi nhớ cha mẹ của Kiều, Nguyễn Du dùng từ xót. Từ này thể hiện nỗi nhớ thương quặn lòng của một đứa con hiếu thảo. Nguyễn Du sử dụng thành ngữ quạt nồng ấp lạnh, điển cố sân Lai, gốc tử để nói lên nỗi xót xa của nàng khi cha mẹ đã già mà không được chăm sóc chu đáo. Còn gì xót xa hơn khi nghĩ đến cha mẹ đã già mà vẫn phải nhớ thương, ngày đêm lo lắng cho mình, vẫn tựa cửa chờ ngóng tin con.
Là đứa con hiếu thảo, Kiều quyết định 'bán mình chuộc cha', nhưng ngay cả khi ở xa nơi xa xôi, nỗi nhớ và lòng thương xót của nàng dành cho cha mẹ già vẫn không nguôi. Ai sẽ thay thế vị trí của mẹ để chăm sóc họ là câu hỏi sâu sắc trong tâm trí của Kiều.
Đoạn thơ đã diễn đạt được sự chân thành và cao quý trong nhân cách của nhân vật Thúy Kiều. Khi nhắc đến Kiều, người ta thường nói đến vẻ đẹp và tài năng, nhưng thực sự, tình cảm mà Kiều dành cho gia đình, người yêu, và mọi người xung quanh mới là điều làm nên phẩm chất cao quý của nàng.
Cảm nhận của tôi về 8 câu thơ ở giữa trong đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích - mẫu số 4
Nguyễn Du là một trong những thi sĩ vĩ đại của dân tộc, ông đã góp phần làm phong phú văn học Việt Nam với nhiều tác phẩm văn học đặc sắc bằng cả chữ Nôm và chữ Hán. Nhiều tác phẩm của ông đã để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng độc giả qua các thế hệ và có lẽ tác phẩm để lại ấn tượng sâu sắc nhất chính là 'Truyện Kiều' (Đoạn trường tân thanh). “Truyện Kiều” cuốn hút người đọc bởi cốt truyện hấp dẫn, nghệ thuật độc đáo, và 8 câu thơ ở giữa trong đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” là một ví dụ điển hình cho điều đó.
Không chỉ thể hiện nỗi đau về hoàn cảnh của mình, đoạn trích còn phản ánh nỗi nhớ về Kim Trọng và cha mẹ của Thúy Kiều. Nỗi nhớ về chàng Kim của Thúy Kiều được thể hiện rõ qua các câu thơ tiếp theo.
Tưởng người dưới ánh trăng uống rượu
Nghĩ sương đêm nhìn đợi mai đến.
Việc đặt từ 'tưởng' ở đầu câu thơ đã khiến cho nỗi lòng của Thúy Kiều càng thêm đau đớn, như thể nàng đang hồi tưởng, tưởng nhớ và nhớ lại những khoảnh khắc hạnh phúc cùng Kim Trọng dưới ánh trăng. Nàng nhớ về những lời thề nguyền, những kỷ niệm đẹp và hình ảnh Kim Trọng luôn đợi chờ tin tức của mình. Và sau cơn khát khao mênh mông đó, nàng tỉnh giấc nhìn thấy hiện tại và cảm thấy xót xa cho chính bản thân mình.
Bến trời góc biển lạc lõng
Tấm lòng thủy chung, son sắt vẫn không phai
Mỗi khi nhớ về Kim Trọng, Kiều càng thêm đau lòng cho cảnh tình cảm lạc lõng tại 'bến trời góc biển' và cảm thấy tủi phận cho bản thân. Động từ 'gột rửa' đã lột tả sự đau đớn tột cùng của Thúy Kiều khi danh dự và phẩm giá của nàng bị hoen ố. Như vậy, qua những dòng thơ này, chúng ta thấy rõ tình trạng buồn nhớ về người yêu của Kiều và nỗi tủi phận của nàng.
Đồng thời, đoạn thơ cũng phản ánh rõ nỗi nhớ thương đối với cha mẹ của Thúy Kiều.
Xót người tựa cửa ngày mai
Quạt nồng ấp lạnh nỗi đau giờ phút này
Sân Lai cách mấy dặm trời
Có khi gốc tử đã vừa lòng người thương.
Khi nhớ về Kim Trọng, tác giả sử dụng từ 'tưởng' để diễn tả tâm trạng của Kiều, trong khi đó, khi diễn tả tâm trạng đối với cha mẹ, tác giả chọn từ 'xót' một cách khéo léo. Kiều cảm thấy xót xa khi nghĩ đến cha mẹ đã già mà vẫn phải ngày đêm đợi chờ tin tức từ con. Bằng cách sử dụng thành ngữ 'quạt nồng ấp lạnh' và điển cố 'Sân Lai', tác giả đã tôn vinh tấm lòng hiếu thảo của Kiều đối với cha mẹ và nỗi lo lắng của nàng.
Với trái tim của một đứa con hiếu thảo, Thúy Kiều nghĩ về cha mẹ ở quê nhà, đã già mà không có ai chăm sóc. Tuy nàng đã bán mình chuộc cha và em nhưng trong lòng nàng vẫn luôn chứa đựng tình thương, lo lắng và quan tâm đến cha mẹ. Nỗi nhớ thương về người yêu và cha mẹ của Thúy Kiều một lần nữa cho chúng ta thấy nàng là một người tình trung thành và một người con hiếu thảo.
Cảm nhận của tôi về 8 câu thơ ở giữa trong đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích - mẫu số 5
“Tưởng người dưới ánh trăng, đồng chén đồng
Tin sương đêm, những vệt trông chờ bình minh.
Bên trời góc biển lạc lõng,
Tấm lòng thủy chung, son sắt không phai mờ.
Xót người tựa cửa ngày mai,
Quạt nồng ấp lạnh ai đang đợi?
Sân Lai cách mấy dặm mưa nắng,
Có khi gốc tử đã vừa lòng người ấm êm.”
Trong bốn dòng thơ này, Nguyễn Du đã bằng tài nghệ sâu sắc của mình, mô tả cảnh tình cô đơn, buồn rầu của Kiều trong lầu Ngưng Bích, cảm giác lạc lõng, bơ vơ giữa một vùng đất xa lạ.
Tác giả đã tinh tế diễn tả Kiều nhớ về Kim Trọng trước hết, thể hiện sự tinh tế trong việc sử dụng ngôn từ văn chương. Trong lúc gia đình gặp khó khăn, nàng quyết định phụ tình Kim Trọng và không thể giữ được lời thề chung thủy, sắc son. Điều này khiến nàng lo lắng, bất an, hơn nữa, tình đầu với Kim Trọng vẫn còn sâu đậm, nồng nàn, việc nhớ về Kim Trọng trở nên phù hợp với quy luật tâm lý của cô gái trẻ như Kiều.
Nỗi nhớ về Kim Trọng luôn hiện hữu. Nàng nhớ về những kỷ niệm đẹp, những lời thề hẹn của cả hai.
“Tưởng người dưới ánh trăng, đồng chén đồng
Tin sương đêm, những vệt trông chờ bình minh
Chữ 'tưởng' ở đây không chỉ mang ý nghĩa nhớ về Kim Trọng mà còn có nghĩa là tưởng tượng, hình dung ra người mà nàng yêu đã nhớ về mình, vẫn đang ngày đêm chờ đợi tin tức từ nàng, nhưng cuối cùng là thất vọng vì vô ích. Trong tình cảnh lạc lõng, bơ vơ giữa vùng đất xa lạ, nỗi đau, cô đơn và xót xa của Kiều trở nên sâu sắc hơn.
Nàng suy tư về 'tấm lòng lạc lõng bên trời góc biển', đồng thời đặt câu hỏi: 'tấm lòng thủy chung gột rửa bao giờ mới trở lại như xưa'. 'Tấm lòng' ở đây vừa ám chỉ tình yêu chân thành của nàng với Kim Trọng, sẽ không bao giờ phai mờ dù có gặp bao nhiêu gian khó trong tương lai. Đồng thời, nó cũng ám chỉ tâm hồn trong sáng của nàng đã bị nhơ nhuốc bởi những kẻ như Tú Bà, Mã Giám Sinh, làm sao có thể làm sạch và phục hồi được nữa?
Nỗi bi kịch của tình yêu và nỗi đau về thân phận bất hạnh cùng với nhân phẩm, đức hạnh cao quý của nàng bị lấn át. Nhưng sau khi nhớ đến người yêu, nàng lại nghĩ về cha mẹ của mình.
'Xót người tựa cửa ngày mai
Quạt nồng ấp lạnh ai đang đợi
Sân Lai cách mấy dặm mưa nắng
Có khi gốc tử đã vừa lòng người ôm
Trong bốn câu thơ tiếp theo, nàng lo lắng và xót xa nghĩ về cha mẹ, sợ rằng họ vẫn đứng đợi nàng trở về mỗi sáng, mỗi chiều. Trong câu thơ ấy, không chỉ là nỗi nhớ cha mẹ của Kiều mà còn là nỗi đau, nỗi xót xa đến đau lòng.
Lo lắng cho cha mẹ, nàng sợ rằng không có ai chăm sóc khi thời tiết thay đổi, nỗi xót xa khi cha mẹ già mà nàng không thể ở bên phụng dưỡng. Nguyễn Du mô tả nội tâm của Kiều qua những thành ngữ như 'quạt nồng ấp lạnh', 'cách mấy nắng mưa' và những điển tích 'sân lai, gốc từ' để thể hiện tâm trạng lo lắng, nhớ thương và lòng hiếu thảo của nàng.
Dù trong hoàn cảnh khốn khổ, đáng thương nhất, nhưng nàng vẫn luôn nhớ đến người khác, người yêu và cha mẹ. Thúy Kiều là biểu tượng của sự hy sinh và quan tâm, lòng trung thành và hiếu thảo, nhưng cũng gánh chịu số phận đau lòng!
Cảm nhận về 8 câu thơ ở giữa trong đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích - mẫu 6
Nguyễn Du là nhà văn vĩ đại của dân tộc, một biểu tượng văn hóa toàn cầu. Tên tuổi của ông liên quan mật thiết đến tác phẩm 'Truyện Kiều' - tác phẩm vĩ đại nhất trong văn học trung đại Việt Nam, không chỉ về giá trị nội dung mà còn về nghệ thuật. Đoạn trích 'Kiều ở lầu Ngưng Bích' và đặc biệt là tám câu thơ ở giữa đã diễn tả một cách xúc động về nỗi nhớ người yêu, nhớ cha mẹ của Thúy Kiều, qua ngôn ngữ nội tâm của nhân vật.
Sau khi biết mình bị lừa vào lầu xanh, Kiều quyết định tự vẫn. Tú Bà vì lo sợ mất tiền và lợi nhuận đã hứa sẽ gả nàng vào nơi tử tế sau khi nàng bình phục, nhưng thực tế là đưa Kiều ra lầu Ngưng Bích để giam giữ nàng.
Là một cô gái đơn độc ở đất khách quê người, Kiều sống ở lầu Ngưng Bích với tâm trạng cô đơn và buồn bã. Trước mắt nàng chỉ là một không gian rộng lớn với núi xa trăng gần, với những cồn cát bụi bay mù mịt. Thời gian tuần hoàn khép kín không gian và thời gian đó như giam hãm con người, khiến nàng cảm thấy cô đơn, buồn bã và đau đớn, tan nát lòng.
Đầu tiên, Kiều nhớ về Kim Trọng.
Tưởng người dưới ánh trăng mênh mông
Nghĩ sương mai trắng xoá vấn vương
Trong câu thơ này, 'tưởng' mang ý nghĩa của việc hồi tưởng, nhớ lại. Khi nhớ về Kim Trọng, Kiều luôn nhớ đến lời thề đôi lứa, chén rượu thề nguyền đã uống dưới ánh trăng lung linh:
Ánh trăng vằng vặc giữa bầu trời
Đôi lời thề hẹn như song song
Vầng trăng vẫn soi sáng, chén rượu thề nguyền vẫn còn đầy, nhưng tình duyên đã bị chia cắt đột ngột. Câu thơ đọng lại nhịp thổn thức của trái tim yêu thương, đang rỉ máu.
Khi nhớ về Kim Trọng, Kiều hình dung cảnh tượng ở Liêu Dương xa xôi và cách trở. Kim Trọng không biết rằng Kiều đã bán mình chuộc cha, vẫn hướng về Kiều chờ tin mà uổng công vô ích. Mỗi khi nhớ về Kim, Kiều lại càng thương cho số phận của mình:
Bên trời góc biển hoang vắng
Tấm lòng son phai dần dần
Thương thân mình lạc lõng trên biển, góc bể, càng nuối tiếc cho tình yêu đầu. Câu thơ 'Tấm lòng son phai dần dần' có thể hiểu là tấm lòng chung thủy của Kiều dành cho Kim Trọng không bao giờ phai nhạt. Trong cô đơn, Kiều nhớ đến Kim Trọng và để lòng mình thong thả trôi theo dòng ký ức. Đó là biểu hiện của lòng vị tha và trung thành.
Chưa phai nỗi nhớ người yêu, trái tim Kiều lại càng chất chồng nỗi nhớ cha mẹ. Nhớ Kim Trọng, nàng nhớ cha mẹ, đều đọng lại trong lòng nàng.
Xót cho hình bóng ngày mai tựa cửa
Bấm tay vào lòng, những ai vẫn lạnh lẽo?
Sân Lai đọng lại bao trận mưa nắng,
Có lẽ gốc tử sẽ ôm lấy người
Kiều đau đớn khi cha mẹ đã già yếu vẫn đứng chờ tin tức từ con, và nàng càng đau đớn hơn khi không thể tự tay chăm sóc họ, không biết ai sẽ chăm sóc cho họ. Thành ngữ 'Quạt nồng ấp lạnh' và điển cố 'sân lai' cùng 'gốc tử' đều thể hiện sự nhớ thương và lòng hiếu thảo của Kiều.
Nhớ về cha mẹ, nàng tưởng tượng về cuộc sống hiện tại của họ, lo lắng rằng 'Có lẽ gốc tử sẽ ôm lấy người', chỉ ra sự yếu đuối ngày một tăng của cha mẹ. Cụm từ 'cách mấy nắng mưa' không chỉ nói về thời gian xa cách mà còn về sự tàn phá của tự nhiên, gợi lên nỗi ân hận sâu sắc của Kiều vì đã phụ bạc công ơn sinh thành của cha mẹ.
Nỗi nhớ của Kiều trải dài qua thời gian và không gian, càng trở nên sâu sắc. Nhớ Kim Trọng trước cha mẹ sau, đó là sự hiểu biết và lòng bi thương của nàng. Thể hiện sự tinh tế trong việc miêu tả tâm trạng của nhân vật.
“Hãy giữ vàng, giữ ngọc cho kỹ
Để lòng kẻ chân mây với trời”
Bây giờ, tâm hồn Kiều đã bị tổn thương, nàng luôn nuối tiếc về việc đã phụ bạc Kim Trọng. Nỗi đau ấy không ngừng làm nàng nhớ về Kim Trọng, nhớ về người yêu trước nhớ cha mẹ sau, thể hiện sự tinh tế trong miêu tả tâm trạng của Nguyễn Du.
Dù ở lầu Ngưng Bích cô đơn, Thúy Kiều vẫn là người đáng thương nhất, nhưng trái tim của nàng luôn đầy yêu thương và lòng nhân hậu. Nàng là một người tình thủy chung và con hiếu thảo đáng trân trọng.
Bằng cách sử dụng ngôn ngữ độc thoại nội tâm và từ ngữ hình ảnh tinh tế, Nguyễn Du đã thành công trong việc miêu tả nỗi nhớ đến người yêu và cha mẹ của Thúy Kiều. Điều này cho thấy Kiều không chỉ là một cô gái tài năng và sắc đẹp mà còn là người thủy chung và hiếu nghĩa.
Nhận định về 8 câu thơ nằm trong đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích - mẫu 7
Thúy Kiều được Nguyễn Du xây dựng như một nhân vật lí tưởng với tài năng và sắc đẹp, nhưng cuộc đời nàng lại chứa đựng nhiều biến động và nỗi đau. Tác giả muốn truyền đạt những khát vọng sống và yêu thương mạnh mẽ nhất qua nhân vật Thúy Kiều. Đoạn trích 'Kiều ở lầu Ngưng Bích' đã thành công trong việc diễn đạt hình ảnh và tâm trạng của Kiều khi sống trong lầu xanh.
Cuộc đời của Thúy Kiều sau khi bị Mã Giám Sinh bắt là chuỗi ngày đau buồn và nước mắt. Nàng bị chà đạp và bóp méo không thương tiếc. Những kẻ mua bán người đã dùng mọi cách để có được nàng và sau đó hành hạ nàng. Mặc dù đã định tìm cái chết để thoát khỏi cảnh đau đớn, nhưng Tú Bà đã giữ nàng sống tại lầu Ngưng Bích - nơi không có lòng nhân ái. Hành động này của Tú Bà chính là cách để kiều bị giam giữ, và từ đó Kiều phải phục vụ khách hàng.
Trong hoàn cảnh đó, Thúy Kiều vẫn luôn nhớ về quê nhà và những người thân. Nỗi nhớ đó sâu sắc và cảm xúc.
Tưởng người dưới ánh trăng vắng
Chờ sương tan, nhìn rày mai đợi
Bên trời góc bể cô đơn lạc lõng
Lòng son phai mờ dẫu có bao giờ
Dù trong cảnh éo le như vậy, tấm lòng son của Thúy Kiều vẫn nhớ mãi về một người, nhớ lại những kỷ niệm đẹp từng có. Kiều xót xa khi nghĩ đến Kim Trọng vẫn chờ đợi tin tức từ nàng. Nhìn lại bản thân, nàng thấy nhơ nhớp và hoen ố. Thúy Kiều không thể giữ lời hứa với Kim Trọng. Nàng tự hỏi, 'tấm son gột rửa bao giờ cho phai', những gì nàng chịu đựng, những gì kẻ xấu làm, liệu Kim Trọng có thấu hiểu, có thể gột rửa được không? Một trái tim đau đớn và thê lương.
Nghĩ về người yêu đã đau lòng, Thúy Kiều càng xót xa hơn khi nhớ đến cha mẹ:
Xót người chờ mong trước cửa ngày mai
Quạt nồng ấm, lạnh lùng đợi chờ
Lai sân bao nhiêu nắng mưa
Đôi khi ngồi gốc cây đã vừa ôm được người
Thúy Kiều đau lòng khi nhớ đến cha mẹ già yếu, từng ngày trôi qua với bóng dáng héo hon của họ. Nàng lo lắng không biết ai sẽ chăm sóc cho cha mẹ khi nàng không ở bên. Nỗi ân hận và đau lòng khi không thể chăm sóc cho mẹ già làm cho trái tim nàng đầy chua xót. Một người con gái hiếu thảo, nhưng phải lặng lẽ nhớ và lặng lẽ chờ mong ngày đoàn tụ. Thúy Kiều – một người con gái sống trong cảnh nhơ nhuốc nhưng lòng hiếu thảo và tình yêu vẫn rất sâu nặng trong trái tim nàng.
Mỗi câu thơ, mỗi hình ảnh gợi lên tâm trạng rối ren giữa khung cảnh u ám, lạnh lẽo khiến người đọc không thể kìm nén được cảm xúc. Nguyễn Du bằng nghệ thuật tinh tế đã vẽ nên một bức tranh đẹp đến rạng ngời, một vẻ đẹp đầy thê lương của cuộc sống Thúy Kiều ở lầu Ngưng Bích.
Cảm nhận của em về 8 câu thơ giữa trong đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích - mẫu 8
Nguyễn Du – Đại thi hào dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới, người có “con mắt nhìn thấu cả sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt cả nghìn đời”. “Truyện Kiều” là tác phẩm thành công nhất của ông; đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” được trích từ “Truyện Kiều” diễn tả tinh tế, sâu sắc tâm trạng của Thúy Kiều trước cảnh vật.
Đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” thuộc phần hai “Gia biến và lưu lạc”. Với nghệ thuật tả cảnh ngụ tình, đoạn thơ như một bản giao hưởng thể hiện cung bậc tâm trạng đa dạng của nàng. Đó là nỗi cô đơn, buồn tủi, là tấm lòng thủy chung, hiếu thảo mà nàng dành cho người yêu và cha mẹ.
Từ trong nỗi cô đơn, phiền muộn, nàng hướng về quê hương, gia đình, những người thân quý. Nỗi nhớ đầu tiên, nàng dành cho Kim Trọng. Có lẽ bởi trước đó nàng bán mình chuộc cha để làm tròn chữ hiếu với cha mẹ, chỉ có chữ duyên với Kim Trọng, nàng phải trao lại cho em, nên hẳn trong lòng còn nhiều băn khoăn, day dứt khi để duyên ai phải lỡ làng.
Ước người dưới ánh trăng vắt khăn.
Nghe sương rơi những đêm đợi chờ mai tới.
Bên trời góc bể lơ vơ,
Chẳng ngày nào tấm lòng phai nhòa.
Nhịp thơ như nhịp trái tim yêu đang thổn thức, rỉ máu. Nỗi nhớ ấy thật thiết tha, nồng cháy. Nỗi nhớ trào lên khiến hình ảnh đêm thề nguyền, đính ước hiện ra chân thật, sống động ngay trước mắt nàng. Đó là hiệu quả diễn đạt vượt trội của từ “tưởng” mà Nguyễn Du đã khéo léo sử dụng trong những vần thơ đầu tiên diễn tả nỗi nhớ của nàng Kiều.
Mới hôm nào, lứa đôi cùng thề nguyền, hẹn ước dưới trăng, vầng trăng còn đó mà giờ đây đã đôi người đôi ngả. Nàng tưởng tượng chàng Kim vẫn ngày ngóng đêm trông tin nàng trong đau khổ, tuyệt vọng. Nghĩ đến chàng, rồi lại nghĩ đến thân phận của mình, bơ vơ, lưu lạc nơi chân trời góc bể, đất khách quê người, biết bao giờ tấm lòng son sắt, chung thủy của nàng dành cho chàng Kim phai nhạt đi thì lúc ấy, có lẽ nàng mới bớt đau khổ, dằn vặt.
Xót người tựa cửa hôm mai
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ
Sân lai cách mấy nắng mưa
Có khi gốc tử đã vừa người ôm
Sau nỗi nhớ người yêu đến quặn thắt, nàng càng xót xa khi nghĩ về cha mẹ. Không xót xa sao nổi khi nghĩ đến cảnh cha già, mẹ héo tựa cửa nhìn xa, ngóng trông tin con mòn mỏi. Rồi khi trời oi nóng, biết ai quạt mát cho cha mẹ yên giấc, khi trời giá lạnh, biết ai ấp ủ chăn ấm cho cha mẹ nằm. Các thành ngữ và điển cố “tựa cửa hôm mai”, “quạt nồng ấp lạnh”, “sân lai”, “gốc tử” để thể hiện nỗi xót xa, lo lắng, bồn chồn của người con có hiếu dù đang trong hoàn cảnh éo le, vẫn đau đáu nghĩ về cha mẹ trong niềm nhớ thương khôn nguôi.
Nỗi nhớ đầy vơi nàng dành cho những người thân yêu nhất, rồi nàng lại quay về với cảnh ngộ của chính mình. Mỗi cảnh vật đang hiện hữu trước mắt đều như khơi lên trong lòng nàng một nỗi buồn thê lương. Nỗi buồn ấy càng lúc càng nhấn chìm nàng xuống đáy sâu của vực thẳm đau khổ.
Cảm xúc của tôi về 8 câu thơ trong đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích - mẫu 9
Ngờ người dưới ánh trăng chén bạc
Nghe sương rơi dày như chờ mai đến.
Bên trời góc biển còn trống trải,
Tấm lòng son dẹp sạch mãi vẫn sáng.
Xót người đợi chờ như ngày mai,
Quạt nồng làm ấm ai giữa lạnh lùng?
Sân Lai bao nhiêu cơn mưa nắng trải qua,
Có lúc ngồi dưới gốc cây vừa đủ cho hai người ôm nhau
Nguyễn Du được coi là một đại thi hào của dân tộc, một danh nhân văn hóa toàn cầu, tác phẩm nổi tiếng của ông là 'Truyện Kiều' – một kiệt tác văn học hàng đầu của Việt Nam thời trung cổ. Ngoài giá trị nội dung sâu sắc của 'Thúy Kiều', tác phẩm cũng rất thành công về mặt nghệ thuật. Nguyễn Du đã tài tình miêu tả con người và thiên nhiên, cũng như khắc họa tâm trạng nội tâm của nhân vật một cách xuất sắc. Đoạn trích 'Kiều ở lầu Ngưng Bích' và tám câu thơ trên đã diễn đạt một cách xúc động về nỗi nhớ của Thúy Kiều đối với người yêu và cha mẹ, thông qua lời thoại nội tâm của nhân vật.
Sau khi phát hiện bị lừa vào lầu xanh, Kiều suy sụp và suy tư tự tử. Tú Bà lo sợ mất tiền lời, hứa sẽ gả Kiều vào một nơi tốt sau khi Kiều phục hồi, nhưng thực ra mụ ta đưa Kiều ra lầu Ngưng Bích để giam giữ nàng. Ở một mình trong môi trường xa lạ, Kiều cảm thấy cô đơn và buồn bã. Cảnh vật trước mắt nàng chỉ là một bức tranh mênh mông với những cánh đồng xa xôi và ánh trăng gần, cùng với những cồn cát bụi bay mù mịt. Thời gian dường như trôi qua chậm rãi, giam hãm tâm trí và cảm xúc của Kiều.
Ban đầu, Kiều nhớ đến Kim Trọng.
Tưởng rằng anh ấy đang dưới ánh trăng uống chén rượu bạc
Nghe như sương rơi đậm chờ đợi cho ngày mai đến
Chữ 'tưởng' ở đây có nghĩa là hồi tưởng, nhớ lại. Nhớ về Kim Trọng là nhớ về người yêu nên bao giờ Kiều cũng nhớ về lời thề đôi lứa. 'Chén đồng' là chén rượu thề nguyền, tượng trưng cho tình đồng lòng, đồng dạ mà Kiều và Kim Trọng đã uống dưới ánh trăng tròn vằng vặc:
'Ánh trăng tròn vằng vặc giữa bầu trời
Hai trái tim đồng lòng, đồng dạ đôi song song'
Ánh trăng ấy vẫn còn sáng chói, chén rượu thề nguyền chưa khô nhưng tình duyên đã chia cắt đột ngột. Câu thơ như có nhịp thổn thức của trái tim yêu thương đang rỉ máu.
Nhớ về Kim Trọng đau đớn, hình ảnh ở Liêu Dương xa xôi cách trở hiện lên trong tâm trí. Kim Trọng không biết Kiều đã bán mình chuộc cha nhưng vẫn đang hướng về Kiều chờ tin mà uổng công vô ích. Càng nhớ chàng bấy nhiêu, Kiều càng thương cho số phận của mình bấy nhiêu:
“Bên trời góc bể bơ vơ,
Tấm lòng chưa phai của Kiều sẽ phải rửa giãy bao giờ?'
Thương thân mình bơ vơ trên trời, góc bể, càng nuối tiếc cho mối tình đầu. Câu thơ 'Tấm lòng chưa phai của Kiều sẽ phải rửa giãy bao giờ?' có thể hiểu là tấm lòng chung thủy của nàng dành cho Kim Trọng chẳng bao giờ phai nhạt. Đặt trong hoàn cảnh cô đơn, Kiều đã để tấm lòng mình lắng xuống và nhớ đến Kim Trọng. Đó là sự vị tha và tấm lòng chung thủy của một người.
Chưa vơi nỗi nhớ người yêu, tâm can Kiều lại càng chồng chất nỗi nhớ thương cha mẹ, nên nhớ tới Kim Trọng nàng 'tưởng' thì nhớ tới cha mẹ nàng 'xót'.
'Xót người tựa cửa hôm mai,
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ?
Sân Lai cách mấy nắng mưa,
Có khi gốc tử đã vừa người ôm'
Kiều xót xa khi bố mẹ đã già yếu mà ngày ngày vẫn tựa cửa ngóng tin con, nàng còn xót xa bởi mình không tự tay chăm sóc được cha mẹ và hiện thời ai là người chăm nom. Thành ngữ 'Quạt nồng ấp lạnh' và điển cố 'sân lai', 'gốc tử' đều nói lên tâm trạng nhớ thương tấm lòng hiếu thảo của Kiều.
Nhớ về cha mẹ, Kiều tưởng tượng ra cảnh quê nhà đã thay đổi, và sự thay đổi khiến nàng lo lắng nhất là “Có khi gốc tử đã vừa người ôm' - cha mẹ mỗi ngày già yếu, không thể tự chăm sóc. Cụm từ 'cách mấy nắng mưa' nói về thời gian xa cách và sự tàn phá của tự nhiên, khiến Kiều nhớ ơn cha mẹ và hối tiếc vì không thể bù đắp công ơn cha mẹ. Nỗi nhớ của nàng kéo dài theo thời gian và không gian, càng thêm sâu xa. Kiều nhớ đến Kim Trọng trước cha mẹ sau, có lẽ vì đã bán mình chuộc cha, nàng đã đền đáp được phần nào công ơn cha mẹ. Đối với Kim Trọng, trước khi ra đi, chàng kỳ vọng vào Kiều bấy nhiêu.
'Giữ vàng giữ ngọc cho hay
Cho đành lòng kẻ chân mây với trời'
Vậy là giờ đây, tấm thân Kiều đã bị hoen ố, nàng đã phụ bạc chàng Kim vì thế nàng luôn ân hận, day dứt như một kẻ phụ tình. Nỗi đau ấy cứ xé tâm can nàng khiến nàng luôn nhớ đến Kim Trọng, nhớ người yêu trước nhớ cha mẹ sau, điều đó hoàn toàn phù hợp với quy luật tâm lý của Kiều. Đồng thời thể hiện sự tinh tế trong ngòi bút miêu tả tâm lý của Kiều. Đồng thời thể hiện sự tinh tế trong ngòi bút miêu tả tâm lý của Nguyễn Du. Điều đáng lưu ý là dù trong hoàn cảnh cô đơn ở lầu Ngưng Bích Kiều là người đáng thương nhất nhưng trái tim Kiều đầy yêu thương nhân hậu vị tha. Nàng là người tình thủy chung, là người con rất mực hiếu thảo, thật đáng trân trọng biết bao.
Tóm lại bằng việc sử dụng ngôn ngữ độc thoại nội tâm, những từ ngữ hình ảnh tinh tế. Qua đoạn trích 'Kiều ở lầu Ngưng Bích' nói chung và tám câu thơ trên nói riêng Nguyễn Du đã khắc họa thành công và thật xúc động lỗi nhớ người yêu, nhớ cha mẹ của Thúy Kiều. Qua đây cho thấy, Kiều không chỉ là một cô gái tài sắc vẹn toàn mà còn là người thủy chung hiếu nghĩa. Đồng thời đoạn thơ cho ta thấy được tấm lòng ngợi ca trân trọng vẻ đẹp phẩm chất của con người, đặc biệt là người phụ nữ trong xã hội xưa.
Cảm nhận của em về 8 câu thơ giữa trong đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích - mẫu 10
Nguyễn Du là danh nhân văn hoá của thế giới đồng thời ông cũng là đại thi hào của dân tộc Việt Nam. Ông để lại cho đời nhiều tác phẩm có giá trị, nhưng nổi bật nhất phải kể tới kiệt tác 'Truyện Kiều'. Tác phẩm không chỉ có giá trị nội dung sâu sắc mà còn rất thành công về mặt nghệ thuật, đặc biệt là nghệ thuật miêu tả nội tâm tài tình của Nguyễn Du. Đoạn trích 'Kiều ở lầu Ngưng Bích' và điển hình là tám câu thơ giữa đã khắc hoạ rất chân thực, rất xúc động nỗi nhớ người yêu, nhớ cha mẹ qua ngôn ngữ độc thoại nội tâm của Thuý Kiều.
Trích từ 'Kiều ở lầu Ngưng Bích' trong phần hai 'Gia biến và lưu lạc'. Sau khi Kiều bán mình để cứu cha và em trai, nàng bị 'bán' làm vợ lẽ cho người, nhưng không ngờ lại bị lừa vào chốn thanh lâu nhơ nhuốc. Tủi nhục và uất ức, Kiều quyết định tự vẫn nhưng lại được cứu sống. Tú Bà vờ hứa gả Kiều vào nơi tử tế khi nàng hồi phục, nhưng sau đó lại giam lỏng nàng ở lầu Ngưng Bích. Ở đó, nơi bốn bề vắng lặng, phía đông trông ra biển, phía bắc nhìn lên kinh kì, phía nam nhìn Kim Lăng, phía tây thấy dãy Kỳ Sơn, Kiều cảm thấy vô cùng buồn bã. Nàng nhớ lại những kỷ niệm ở quê nhà, nhớ lại những kỷ niệm với chàng Kim Trọng và xót thương cho số phận đầy biến động của mình.
Trong tám câu giữa của đoạn trích 'Kiều ở lầu Ngưng Bích', ta cảm nhận được nỗi nhớ thương người yêu cùng nỗi nhớ cha mẹ của Kiều hiện hữu trong từng câu thơ. Nàng nhớ về Kim Trọng - mối tình đầu sâu đậm của mình:
'Tưởng người dưới nguyệt chén đồng,
Tin sương luống những rày trông mai chờ.'
Chữ 'tưởng' mở đầu dòng thơ là hồi tưởng về Kim Trọng. Kiều nhớ lại mối tình đầu của mình, nhớ lại những lời thề son sắt của cả hai dưới ánh trăng vằng vặc:
'Vầng trăng vằng vặc giữa trời
Đinh ninh hai miệng một lời song song'.
Dưới ánh trăng vĩnh cửu đó, Kiều và Kim Trọng đã cùng nhau nâng 'chén đồng' - chén rượu thề nguyền cùng đồng lòng, đồng dạ. Trăng vẫn sáng như xưa, nhưng tình yêu của họ lại bị chia cắt đau đớn. Câu thơ truyền cảm về nỗi đau khi nhớ lại những kỷ niệm tình yêu đẹp đẽ. Khi nhớ về Kim Trọng, Kiều càng đau đớn hơn khi hình dung Kim Trọng vẫn chờ đợi mà không biết nàng đã phải 'bán' mình để chuộc cha mình.
Nhớ về tình yêu của mình, Kiều càng thấy xót xa về số phận của mình:
'Bên trời góc bể bơ vơ,
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai'
Một mình bơ vơ, lạc lõng giữa môi trường xa lạ, Kiều cảm thấy thương tiếc cho số phận của mình và càng tiếc nuối cho tình yêu đầu đẹp đẽ. Dù đã xa rời, không còn là cô gái ngày nào, nhưng 'tấm son' - tấm lòng trung thành của nàng với Kim Trọng sẽ không bao giờ phai mờ. Trong cô đơn, bị giam cầm, Kiều vẫn nhớ về Kim Trọng với tấm lòng trung thành và son sắt.
Nhớ người yêu là như vậy, nhưng trong lòng Kiều vẫn còn rất nặng nề về cha mẹ của mình. Khi nhắc đến Kim Trọng, Kiều hồi 'tưởng', nhưng khi nhắc đến cha mẹ, nàng lại cảm thấy 'xót' xa vô cùng:
'Xót người tựa cửa hôm mai,
Quạt nồng ấp lạnh, những ai đó giờ?
Sân Lai cách mấy nắng mưa,
Có khi gốc tử đã vừa người ôm?'
Một mình giữa chốn xa lạ, nhưng Kiều cảm thấy xót xa hơn khi nhớ về cha mẹ, họ đã già yếu nhưng vẫn 'tựa cửa' mong con về. Là con, Kiều cảm thấy đau lòng hơn khi không thể chăm sóc cha mẹ khi họ già yếu. Cụm từ 'quạt nồng ấp lạnh' và điển cố 'sân Lai gốc tử' thể hiện tâm trạng của một người con hiếu thảo đang đau đớn vì không được bên cạnh cha mẹ. Nhớ cha mẹ, Kiều tưởng tượng thấy quê nhà đã thay đổi nhiều và cha mẹ ngày càng già yếu, điều này làm nàng cảm thấy đau xót!
Có thể nhiều người sẽ tự hỏi, tại sao Kiều nhớ thương cha mẹ nhiều nhưng lại nhớ về người yêu trước mà không phải là mẹ cha của mình? Lí do có lẽ là vì khi Kiều 'bán mình' chuộc cha, nàng đã cảm thấy an lòng với chữ hiếu, đã phần nào đền đáp công ơn cha mẹ sinh thành. Nhưng với Kim Trọng, khi nàng ra đi, chàng không biết điều này và vẫn giữ lời thề, kì vọng vào Kiều. Kiều nghĩ rằng mình đã phụ chàng nên nàng đau lòng và nhớ về chàng trước hết. Điều này phản ánh tâm trạng chân thành của con người.
Nguyễn Du đã miêu tả tâm trạng của Kiều vô cùng chân thực và chính xác. Chỉ với tám câu thơ, ông đã làm nổi bật tâm trạng của Kiều khi bị giam giữ tại lầu Ngưng Bích. Dù cô đơn, lạc lõng, nhưng Kiều vẫn là một người con hiếu thảo, một người tình thuỷ chung. Trong đoạn thơ này, Nguyễn Du còn sử dụng thành ngữ, điển tích và từ ngữ phù hợp để miêu tả tâm trạng của Kiều. Ông thực sự là một nhà thơ tài ba trong việc sử dụng ngôn ngữ để mô tả cảm xúc.
Qua tám câu thơ giữa đoạn 'Kiều ở lầu Ngưng Bích', Nguyễn Du đã thành công vẽ nên hình ảnh của tình yêu và tình thương của Kiều dành cho người yêu và cha mẹ. Điều này cho thấy Kiều không chỉ là một người con gái tài năng và đẹp đẽ mà còn là một người con hiếu thảo và trung thành. Đoạn thơ cũng thể hiện lòng nhân đạo của Nguyễn Du khi ca ngợi vẻ đẹp và phẩm chất cao quý của phụ nữ trong xã hội xưa.